Nhu cầu dinh dưỡng của cá rô phi:
Giống như các loại cá khác, cá rô phi cũng cần 10 loại axít amin
thiết yếu. Chúng tiêu hoá cácbon hyđrat tốt hơn cá chép và cá trê phi.
Việc cung cấp nhiều loại cácbon hyđrat và lipit có tác dụng tăng hiệu
quả của protein trong chế độ ăn, với mức protein chiếm 18 - 22%.
Bột cá vẫn là nguồn protein động vật chủ yếu trong thức ăn của cá
rô phi, ngoài ra có thể lựa chọn các loại khác như thịt gia cầm, cá ủ
xilô, bột tôm, nhuyễn thể... Những protein thực vật được sử dụng nhiều
nhất trong thức ăn cá rô phi là đỗ tương, lạc, hạt bông, hạt hướng
dương, hạt cải dầu và lá Leucaena sp.
Tuy nhiên, những protein động vật và thực vật trên chỉ có thể thay
thế một phần bột cá trong thức ăn của cá rô phi. Ðiều này có thể do sự
thiếu cân bằng của các chất dinh dưỡng thiết yếu như các axit amin và
các khoáng chất, do sự hiện diện của các nhân tố phi dinh dưỡng làm giảm
tính hấp dẫn của thức ăn, giảm tính ổn định của thức ăn trong nước và
độ tiêu hoá thức ăn kém. Ðối với chế độ ăn không có bột cá, để đạt được
mức tăng trưởng so với chế độ ăn tiêu chuẩn, phải bổ sung thêm 3%
dicanxi phosphat và 2% lipit.
Chế độ ăn
Ðể đảm bảo đủ lượng thức ăn, có thể cho cá rô phi chưa trưởng thành
(vài tuần tuổi) ăn với tỷ lệ cao bằng 3 - 4% trọng lượng cơ thể trong
một ngày. Cá có trọng lượng 250-400g thì lượng thức ăn hàng ngày tốt
nhất là bằng 1,5% trọng lượng cơ thể. Ðối với những loài nuôi trong nước
biển thì hằng ngày nên cho ăn lượng thức ăn ít hơn 2% trọng lượng cơ
thể.
Số liệu thu được từ những cuộc thử nghiệm về tần suất cho cá rô phi
ăn vẫn còn khá mơ hồ. Tung Shiau (1991) chỉ ra rằng cho cá rô phi lai
ăn 6 lần/ngày thì cân nặng của chúng tăng nhanh hơn so với cho ăn 2
lần/ngày. Siraj et al.(1988) đạt được sự tăng trưởng và tỷ lệ trao đổi
thức ăn (FCR) tốt hơn khi cho cá rô phi lai đỏ ăn ad libitum 2-3
lần/ngày.
Thử nghiệm cho ăn
Thử nghiệm 1, để so sánh hiệu suất của hai loại thức ăn cho cá rô
phi (loại 20 và loại 25% protein thô). Trong thử nghiệm này, cá rô phi
lai đỏ (O.mossambicus x O.hornorum) thả nuôi trong 8 lồng 100m3 với mật
độ 5000 con/lồng. Treo các lồng trong ao có diện tích 1ha. 4 lồng đầu,
nuôi trong 144 ngày cho cá ăn ad limitum 4 lần/ngày. Ðộ mặn 15 - 18ppt
và ôxy hoà tan được duy trì ở mức 3,5ppm (tối thiểu). Nhiệt độ nước
trong thời gian thử nghiệm là 28 – 32oC. Ao được trang bị hai quạt nước
để lưu thông nước (18 mái chèo và công suất mỗi quạt nước 3 Hp).
Kết quả chỉ ra rằng không có sự khác nhau nhiều trong các lồng về
cân nặng trung bình và tỷ lệ trao đổi thức ăn. Chỉ có sự khác nhau đáng
kể là tăng cân nặng trung bình/ ngày của cá. Chi phí cho loại thức ăn
chứa 20 và 25% protein tương ứng là 0,322 và 0,388 USD/kg (giá ở Thái
Lan).
Với cùng tỷ lệ trao đổi thức ăn như nhau, cá ăn thức ăn chứa 20%
protein có chi phí sản suất tương đối thấp. Hiện tại, những người nuôi
cá rô phi ở Malaixia và Thái Lan thích sử dụng thức ăn chứa 20% protein
hơn. Chi phí thức ăn giảm 17%, vì thức ăn chiếm 50% sản lượng nên tổng
chi phí có thể giảm 8,5%.
Thử nghiệm 2 để xác định ảnh hưởng của tần suất cho ăn đến sự tăng
trưởng của cá rô phi Trong thử nghiệm này, cá rô phi lai đỏ
(O.mossambicus x O.hornorum) có trọng lượng trung bình 320g được nuôi
trong 12 lồng, thể tích mỗi lồng 100 m3 với mật độ 3800 con/lồng. Các
lồng được treo trong ao rộng 1ha và được ăn thức ăn chế biến sẵn trong
cả quá trình nuôi. Cá được cho ăn ad libitum hai, ba và bốn lần/ngày. Sử
dụng thức ăn chứa 25% protein trong 60 ngày thử nghiệm. Kết quả có sự
khác nhau đáng kể trong quần thể về trọng lượng cá trung bình, tỷ lệ
trao đổi thức ăn và khối lượng tăng trung bình hàng ngày. Cho ăn ad
libitum ba và bốn lần/ngày thích hợp cho cá rô phi trong giai đoạn tăng
trưởng. Cho ăn hai lần/ngày dẫn đến tỷ lệ chuyển hoá thức ăn nhiều hơn.
Ðặc điểm kỹ thuật và công thức của thức ăn
Ðặc điểm kỹ thuật trong thức ăn của cá rô phi phụ thuộc vào nhu cầu
dinh dưỡng trong từng điều kiện nuôi. Ðặc điểm này phụ thuộc vào loại
hình nuôi, loại thức ăn chế biến, giá trị sản phẩm và nguồn thức ăn có
nhiều ở các quốc gia Trong thành phần thức ăn chế biến sẵn cho cá rô phi
ở Thái Lan, Inđônêxia, Malaixia, Trung Quốc, những nguyên liệu thô có
sẵn ở địa phương thường chiếm tỷ lệ lớn, đặc biệt là nguồn cácbon hyđrat
ví dụ như cám gạo, cám lúa mỳ, ngô, bột sắn. Những nguyên liệu thô này
có tính mùa vụ nhưng thực tế đã chứng minh là chúng có chất lượng cao và
mang lại hiệu quả lớn.
Lời khuyên về chế độ ăn
Tỷ lệ cho ăn và tần suất cho ăn ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của cá
và tỷ lệ trao đổi thức ăn. Tỷ lệ cho ăn cao có thể làm cho cá tăng
trưởng tốt nhưng không xác định được độ chuyển hoá thức ăn. Bảng sau chỉ
ra loại thức ăn và chế độ cho ăn nên được sử dụng rộng rãi trong nuôi
thâm canh cá rô phi ao và lồng ở Ðông Nam á. Bảng chế độ ăn này có thể
áp dụng với điều kiện nuôi có nhiệt độ nước 28 - 320C. ở điều kiện nhiệt
độ cao hơn hay thấp hơn thì cần điều chỉnh tỷ lệ và tần suất cho ăn hợp
lý.