Loài sâu bệnh này được cảnh báo sẽ gây ra sự tàn phá vô kể trên cây mì với mức độ thiệt hại năng suất có thể lên đến 82%... RSBH gây hại nhiều nhất cho cây mì được phát hiện tại VN từ tháng 7/2012 sau khi bùng phát ở Thái Lan (2008) và Campuchia (2009).
Loài rệp này xâm nhập vào VN chủ yếu qua việc trao đổi buôn bán hom giống mì từ vùng biên giới với Campuchia. RSBH đang phát tán tấn công trên nhiều vùng trồng mì ở nước ta và Lào, Campuchia, Myanmar, Indonesia… đe dọa tàn phá các vùng trồng mì trong khu vực Đông Nam Á.
Theo các nhà khoa học, RSBH có khả năng lây lan rất nhanh qua hom giống, phát tán theo gió, trôi theo nguồn nước, bám dính trên cơ thể động vật, người, hay các công cụ, phương tiện vận chuyển…nên rất khó phòng ngừa. Khi bị RSBH tấn công, cây mì có hiện tượng chùn ngọn và nếu bị nhiễm ở mật độ cao có thể làm rụng hết lá. Do vậy, chất lượng và năng suất sẽ giảm đáng kể.
TS Kris Wyckhuys, nhà côn trùng học thuộc Trung tâm Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế (CIAT) cho biết: “Không chỉ ở cây mì, loài RSBH có thể chuyển sang sống trên các lộc non của cây cao su để gây hại trong những điều kiện nhất định. Đây là nguy cơ rất lớn đối với một nước có diện tích trồng cao su nhiều như VN. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy dịch bệnh có tác động gây hại lớn đối với mì”.
Theo ông Kris Wyckhuys, loài rệp này đã gây hại làm giảm năng suất của cây mì ở châu Phi lên tới 82% (1980). Tuy nhiên, cũng rất khó đánh giá được tác động chính xác của các loài gây hại và bệnh mới, mặc dù chúng làm giảm năng suất, sản lượng đáng kể cho cây trồng và đang lan truyền nhanh chóng trong khu vực Đông Nam Á.
Trước thực trạng này, việc tìm ra các giải pháp để ngăn chặn và kiểm soát chặt chẽ loài RSBH đang là vấn đề cấp bách nhằm bảo vệ cây mì tại VN cũng như trong toàn khu vực. TS Trịnh Xuân Hoạt, Phó Viện trưởng Viện BVTV nhấn mạnh: “Chúng tôi xem sâu bệnh trên cây mì là một vấn đề mới và nghiêm trọng không riêng ở quốc gia nào mà ở toàn khu vực. Do đó, cần có kiến thức hiểu biết rộng về loại dịch hại này và hợp tác nghiên cứu giữa các nước để giải quyết những mối đe dọa trên cây trồng”.
Theo ông Hoạt, thực tế việc sử dụng thuốc hóa học để phun phòng trừ RSBH đem lại hiệu quả rất thấp chỉ đạt 5% do rệp sống ở những vị trí kín trên cây mì. Ngoài ra, do rệp có lớp sáp và bột trắng bao phủ trên thân nên thuốc không bám dính hết vào cơ thể và tiêu diệt được chúng. Do vậy, cần tổ chức các khóa đào tạo để trang bị cho các hội nghiên cứu khu vực kiến thức mới về các mối đe dọa đối với cây mì và phán đoán, điều tra phân tích kỹ thuật quản lý dịch hại.
TS Ngô Quang Vinh, Phó Viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam (IAS) cho biết: “Không chỉ gây hại cho cây mì, RSBH còn xuất hiện trên một số cây ăn quả như nhãn, ổi, đu đủ, thơm… Tại thời điểm này, rệp sáp chính là đối tượng sâu hại nguy hiểm nhất đối với cây mì và mức độ gây hại thì vô cùng.
Kinh nghiệm ở châu Phi cho thấy, phần lớn RSBH trên cây mì đến nay đã được kiểm soát nhờ có ong ký sinh Anagyruslopezi, một kẻ thù tự nhiên chuyên biệt của dịch hại. Còn tại Thái Lan ngay từ khi phát hiện loài rệp này lần đầu tiên cũng đã nhanh chóng phóng thích loài ong ký sinh và đã thu được hiệu quả rất cao".
PGS.TS Nguyễn Xuân Hồng, Cục trưởng Cục BVTV:
"RSBH là đối tượng sâu bệnh mới phát hiện ở VN năm 2012 tại vùng mì Tây Ninh. Nhiều nước trồng mì trong khu vực cũng bị ảnh hưởng bởi đối tượng dịch hại này. Một trong những biện pháp phòng trừ bền vững hiệu quả nhất hiện nay là sử dụng ong ký sinh.
Những ổ dịch mới phát sinh cần phải tiêu hủy ngay nguồn bệnh từ gốc. Đồng thời kiểm tra chặt chẽ hom giống, không để lây lan từ vùng dịch, hướng dẫn nông dân ngăn chặn bằng biện pháp kiểm dịch nội địa. Việc nhân nuôi ong ký sinh để thả ra môi trường sẽ cho hiệu quả rất cao, tới 90% như ở Tây Ninh".
MINH SÁNG - Nông nghiệp VN, 11/12/2013
Trồng sắn trên đất dốc
Miền bắc chủ yếu trồng sắn trên các vùng đất dốc, và kỹ thuật canh tác còn đơn giản nên năng suất sắn đạt rất thấp, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã chọn tạo thành công một số giống sắn mới có khả năng khắc phục được hạn chế trên.
Một số giống sắn thích hợp
Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành chọn tạo và nghiên cứu ra nhiều giống sắn mới phù hợp với điều kiện đất đai này như KM94, KM98-7, KM21-10 và KM21-12.
Trong số các giống sắn trên, KM94 là giống đã được ứng dụng rộng rãi tại nhiều địa phương. KM94 có nguồn gốc từ tập đoàn giống nhập nội CIAT/Thái-lan, thân xanh, hơi cong, ngọn tím, không phân nhánh. Năng suất củ tươi đạt 30-40 tấn/ha, tỷ lệ chất khô trong sắn cao 39-40%, hàm lượng tinh bột 29-30%.
Sắn KM94 rất dễ trồng, thời gian sinh trưởng trung bình (7-12 tháng sau trồng đã có thể thu hoạch). Một trong những giống sắn có nhiều triển vọng khác đang trong quá trình khảo nghiệm hiện nay là giống KM98-7. Đây là giống sắn đa dụng vừa có thể sử dụng ăn tươi, vừa dùng vào chế biến thành tinh bột. Ưu điểm nổi bật của KM98-7 là tính chịu hạn cao, điều này rất phù hợp với khí hậu tại miền núi phía bắc thường hay rơi vào tình trạng khô hạn kéo dài.
KM98-7 có dạng cây đẹp, cao, mầu nâu, lá nhỏ, thích hợp với đất đồi sỏi đá. Thời gian thu hoạch sắn tương đối ngắn (7-8 tháng sau trồng), nhưng năng suất, chất lượng củ vẫn tương đương KM94...
Kỹ thuật canh tác sắn trên vùng đất dốc
Trồng sắn trên đất dốc nếu không có biện pháp chống xói mòn, đất trồng sắn sẽ trở thành đất trống đồi núi trọc, dẫn đến đất mất khả năng sản xuất, năng suất chất lượng giảm. Trước thực tế này, Viện KHKT nông nghiệp Việt Nam đã đưa ra một số quy trình kỹ thuật cơ bản khi trồng sắn trên đất dốc như sau:
Khâu đầu tiên, phải thiết kế các băng chống xói mòn như cốt khí, cỏ vetiver, cỏ paspalum, dứa... vì những loại cây này có tác dụng giữ đất rất tốt. Nếu đất dốc dưới 15 độ, khoảng cách giữa các băng cây xanh là 8-10m, đất dốc 15-20 độ, khoảng cách dày hơn từ 4-6m.
Các biện pháp kỹ thuật chủ yếu
Làm đất: ở vùng đất bằng hoặc có độ dốc thấp, cày và lên luống theo đường đồng mức, luống cách luống 1,0m.
Thời vụ trồng: Thời gian trồng thích hợp nhất khoảng từ tháng 2 đến 15-3 (miền bắc), từ tháng 4 đến tháng 8 (miền nam).
Mật độ: Tùy thuộc vào từng loại đất, đất tốt trồng thưa, đất xấu trồng dày, bảo đảm khoảng cách trung bình 1,0 x 0,8 x 1,0m, tức mật độ cây từ 10.000 - 12.500 cây/ha.
Bón phân: Lượng phân bón cho 1 ha khoảng 10-15 tấn phân chuồng, 110-160kg đạm ure, 220-270kg supe lân, 160-250kg kali, 180 kg phân tổng hợp NPK theo tỷ lệ 60kg N, 40kg P2O5, 80kg K2O. Cách bón, bon lót toàn bộ phân chuồng và phân lân. Bón thúc lần 1 (sau trồng 45 ngày) 50% đạm + 50% kali. Bón thúc lần 2 (sau trồng 3 tháng) toàn bộ lượng phân còn lại kết hợp làm cỏ và vun cao.
Một trong những biện pháp khá hiệu quả chống xói mòn cho đất là trồng xen với các cây họ đậu như lạc, đậu xanh, đậu đen, đậu tương. Kỹ thuật trồng xen tốt nhất là trồng xen hai hàng đậu vào giữa hai hàng sắn, khoảng cách sắn vẫn giữ nguyên. Khi sử dụng biện pháp trồng xen, lượng phân bón cho cây xen cần thiết là 70% lân + 20% đạm + 30% kali trong tổng số phân bón cho sắn cộng thêm 300kg vôi bột để diệt trừ sâu, bệnh.
Phương pháp này hiện đã được ứng dụng ở nhiều nơi như Yên Bái, Tuyên Quang, Hà Tây, Hòa Bình. Kết quả, lượng đất bị xói mòn đã giảm tới 68-96% so với các chân đất không băng chắn. Năng suất tăng cao hơn, cải tạo cơ bản được độ phì nhiêu của đất.
Nông thôn ngày nay