Trong những năm qua, việc đưa một số giống lúa mới (nhất là các giống lúa lai) vào sản xuất đã không ngừng nâng cao năng suất lúa, góp phần xoá đói giảm nghèo và nâng cao thu nhập cho người nông dân. Bên cạnh những ưu điểm, các giống lúa lai cũng bộc lộ những hạn chế như mức độ thiệt hại do sâu bệnh thường nặng hơn so với các giống lúa thuần địa phương, làm tăng chi phí phòng trừ và ô nhiễm môi trường.
1. Rầy nâu hại lúa.
Đặc điểm và triệu chứng gây hại : Rầy nâu có 5 tuổi, tuổi nhỏ thường gọi là rầy cám, trưởng thành mầu xám nâu và có 2 dạng cánh ngắn và cánh dài. Khi mật độ rầy cánh ngắn xuất hiện cao là báo trước nguy cơ cháy rầy, rầy cánh dài xuất hiện khi các yếu tố thức ăn không phù hợp và thời tiết bất lợi. Rầy nâu thường bám trên thân lúa sát mặt nước, chích hút dịch lúa để sống và hoàn thiện vòng đời. Nếu mật độ rầy nâu thấp cây lúa sinh trưởng kém, lá biến mầu xanh vàng. Khi mật độ rầy cao (trên 3000 con/m2) thì cây lúa bị chết và biến mầu vàng rơm ( lúa bị cháy rầy). Nguy hiểm hơn rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh vius vàng lùn và lùn xoắn lá gây thất thu hoàn toàn năng suất lúa mà hiện nay chưa có thuốc đặc trị.
Qui luật phát sinh gây hại : Trong điều kiện thời tiết vụ đông xuân rất phù hợp cho quá trình sinh trưởng và phát sinh gây hại của rầy nâu. Vì vậy mật độ rầy thường tăng nhanh và gây cháy rầy trong vụ lúa xuân. Rầy nâu có thể gây hại trong suốt quá trình sinh trưởng của lúa, nhưng giai đoạn mẫn cảm nhất với rầy nâu là từ giai đoạn lúa đứng cái đến trỗ chín (chú ý hiện tuợng cháy rầy thường xảy ra ở giai đoạn này). Giống lúa là một trong những yếu tố quan trọng quyết định mật độ rầy trên đơn vị diện tích. Điều này liên quan đến vấn đề dùng giống kháng ở những nơi thường xảy ra cháy rầy.
Các biện pháp phòng trừ rầy nâu:
Dùng giống lúa kháng rầy có ý nghĩa quyết định trong công tác phòng trừ rầy nâu.
Cần chú ý gieo cấy tập trung đúng thời vụ và có kế hoạch chủ động trong công tác phòng trừ rầy. Mật độ rầy có thể tăng đột ngột trong thời gian ngắn, vì vậy cần kiểm tra và giám sát đồng ruộng thường xuyên nhằm đưa ra biện pháp phòng trừ kịp thời và hiệu quả.
Khi rầy cánh ngắn xuất hiện với mật độ cao là báo trước nguy cơ cháy rầy. Vì vậy cần phun trừ kịp thời rầy nâu bằng một trong các loại thuốc như Trebon 10 EC, Bassa 50 EC....nồng độ từ 0,15- 0,2 %.
2. Bọ xít hôi (bọ xít dài).
Đặc điểm và triệu chứng gây hại :Bọ xít thường gây hại nặng trên các trà lúa khi bước vào giai đoạn trỗ, phơi hoa đến chín sữa. Bọ xít non và trưởng thành dùng vòi chích hút dịch của hạt lúa, làm cho hạt lúa bị thâm đen và lép lửng. Những hạt lúa này khi xay bị đớn và ăn có vị đắng. Tác hại này của bọ xít không những làm giảm năng suất mà còn làm giảm nghiêm trọng chất lượng lúa gạo.
Qui luật phát sinh gây hại : Bọ xít non và trưởng thành thường hoạt động mạnh và giao phối vào buổi sáng và chiều mát, sau khi mưa trời hửng nắng.
Biện pháp phòng trừ bọ xít: Vệ sinh đồng ruộng, diệt trừ cỏ dại là những ký chủ phụ của bọ xít. Tập chung cấy đúng thời vụ trên toàn cánh đồng để có kế hoạch theo dõi và chủ động phòng trừ bọ xít. Khi mật độ bọ xít cao có thể dùng một trong các loại thuốc như Bassa 50 EC, Tre bon 10 EC.. nồng độ từ 0,15- 0,2 % (chú ý không được phun thuốc khi lúa đang phơi hoa ). Cần phun phòng bọ xít trước khi lúa trỗ khoảng 5- 7 ngày, hoặc dùng bẫy bả để tiêu diệt bọ xít khi lúa đang phơi hoa.
3. Bệnh đạo ôn hại lúa.
Triệu chứng bệnh : Bệnh phát sinh gây hại trong tất cả các giai đoạn sinh trưởng của lúa và hại trên nhiều bộ phận của cây lúa như lá, cổ bông, thân, gié lúa, hạt và bẹ lá. Trên lá lúa vết bệnh đàu tiên là các chấm nhỏ mầu vàng nhạt trong mờ. Ban đầu vết bệnh hơi tròn hoặc hình bầu dục, sau phát triển thành hình thoi, ở giữa có mầu xám tro, viền vết bệnh có mầu vàng nhạt. Trong trưòng hợp bệnh nặng các vết bệnh liên kết lại với nhau làm cho lá lúa bị cháy khô. Khi gặp ẩm độ cao (trời mưa phùn hoặc có suơng mù) thì trên vết bệnh xuất hiện lớp nấm mốc mầu xám xanh đó là cành bào tử và bào tử của nấm bệnh. Khi bẹ lá bị bệnh nặng sẽ làm cho toàn ruộng lúa bị tàn lụi nhanh chóng. Trên đốt thân và cổ bông vết bệnh mầu đen hoặc xám đồng hơi lõm xuống làm cho bông lúa bị gãy gục (giai đoạn sau trỗ). Vết bệnh trên hạt thường hình tròn hoặc không định hình.
Biện pháp phòng trừ bệnh đạo ôn: Sử lý hạt giống trước khi gieo bằng nước nóng 54 độ C trong 10- 15 phút. Vệ sinh đồng ruộng bằng cách dọn sạch tàn dư và ký chủ phụ của nấm bệnh trên đồng ruộng sau khi thu hoạch. Những nơi thường xảy ra dịch bệnh đạo ôn cần chú ý bố trí cơ cấu giống phù hợp, ưu tiên các giống lúa kháng bệnh đạo ôn, bón phân cân đối , tránh bón thừa đạm. Khi bệnh xuất hiện ngừng bón thúc đạm, kết hợp bón vôi bột và tro bếp theo tỷ lệ 2 :3, bón từ 3-5 kg/ sào vào buổi sáng. Khi bệnh có nguy cơ bùng phát thành dịch cần dùng một trong các loại thuốc sau để phun trừ : Kitajin 50 EC, Fujioan, Hinosan... nồng độ từ 0,15- 0,2 %.
Lưu ý: Ngoài các đối tượng sâu bệnh chủ yếu nêu trên, trong vụ lúa đông xuân cần chú ý sâu phao, sâu cuốn lá nhỏ, ruồi đục lá, sâu đục thân, bệnh nghẹt rễ lúa, bệnh khô vằn, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, lùn sọc đen....