iện nay, nông dân huyện Cái Nước đang phát huy nhân rộng mô hình đa cây đa con, thu được hiệu quả khá cao, góp phần không nhỏ vào công cuộc xóa đói giảm nghèo ở nông thôn. Mô hình nuôi cá chình của hộ ông Phùng Hòa Thuận, ấp Tân Tạo, xã Tân Hưng Đông, huyện Cái Nước là một điển hình.
Sau nhiều năm nuôi tôm kém hiệu quả, ông Phùng Hòa Thuận đi hỏi kinh nghiệm kỹ thuật nuôi cá chình ở nhiều nơi trong tỉnh về áp dụng nuôi thử nghiệm ngay trên phần đất của gia đình, với diện tích nuôi ban đầu chỉ có một ao khoảng 300m2, đã cho thu hoạch được hơn 50 triệu đồng. Thấy mô hình nuôi cá chình có nhiều triển vọng, ông tiếp tục mở rộng thêm diện tích nuôi lên hai ao với 600m2 và thả 200 con cá chình giống. Sau hơn hai năm chăm sóc, đến nay, mô hình nuôi cá của ông cũng cho thu hoạch một vụ bội thu. Điều đáng phấn khởi là mô hình nuôi cá của ông đạt đầu con khá cao và có trọng lượng trung bình khoảng 3kg/con, cá biệt có những con nặng đến 6kg. Có thể nói, đây là mô hình nuôi cá tiêu biểu nhất của huyện Cái Nước, vì từ trước đến nay hầu như chưa có một mô hình nào mà cá có trọng lượng cao như thế. Ông Phùng Hòa Thuận nói: “Trước đây, gia đình rất khó khăn do nuôi tôm kém hiệu quả, nay nhờ nuôi cá chình, gia đình tôi không những thoát nghèo mà còn có thể vươn lên làm giàu. Với giá cá thời điểm này là 320 ngàn đồng/kg, gia đình ông có thu nhập khoảng 100 triệu đồng, trừ chi phí tiền thức ăn, cá giống, còn lãi trên 80 triệu đồng”.
Da và ruột cá có khả năng hô hấp, dưới 15o chỉ cần giữ cho da cá ẩm ướt là có thể sống được khá lâu. Trời mưa cá hoạt động rất khoẻ bò trườn khắp ao.
Cá chình là loài cá có phạm vi thích nhiệt rộng. Nhiệt độ từ 1 – 38oC cá đều có thể sống được, nhưng trên 12oC cá mới bắt đầu mồi. Nhiệt độ sinh trưởng là 13 – 30oC thích hợp nhất là 25 – 27oC.
Hàm lượng ôxy hoà tan trong nước yêu cầu phải trên 2 mg/1, 5 mg/l là thích hợp cho sinh trưởng, vượt quá 12 mg/l dễ sinh ra bệnh bọt khí.
Tập tính ăn và sinh trưởng:
Cá chình là loại cá ăn tạp, trong tự nhiên thức ăn của cá là tôm, cá con, động vật đáy nhỏ và côn trùng thuỷ sinh.
Khi còn nhỏ thức ăn chính của cá là động vật phù du nhóm Cladocera và giun ít tơ.
Sau 2 năm nuôi, cá đạt kích cỡ 50 – 200g. Nếu thức ăn tốt sau 1 năm nuôi kể từ lúc vớt ngoài tự nhiên có thể đạt cỡ 4 – 6 con/kg.
Cá sinh trưởng chậm, nhất là cỡ từ 300g trở nên tốc độ sinh trưởng chỉ bằng 1/10 tốc độ sinh trưởng của giai đoạn cá có trọng lượng 70 – 100g.
Khi còn nhỏ tốc độ sinh trưởng của cá trong đàn tương đương nhau, nhưng khi đạt chiều dài hơn 40cm con đực lớn chậm hơn con cái.
Tập tính sinh sản của cá chình :
Cá chình là loài cá di cư, cá mẹ đẻ ở biển sâu, cá con sau khi nở trôi dạt vào bờ biển, cửa sông, vùng nước ngọt kiếm mồi và lớn lên. Khi trưởng thành, cá lại di cư ra biển sâu để đẻ trứng.
Cá con mới lớn có hình lá liễu, sau 1 năm mới trôi dạt vào cửa sông. Trải qua nhiều biến thái hình thành cá chình hương màu trắng, cá ngược dòng sắc tố đen tăng dần thành màu đen.
Việc sinh sản nhân tạo cá chình đến nay chưa có nước nào nghiên cứu thành công. Tất cả cá giống đều dựa vào việc khai thác từ tự nhiên ngoài cửa sông hoặc ven biển. ở nước ta cá chình phân bố nhiều từ Quảng Bình vào đến Bình Ðịnh, đặc biệt là vùng hồ Châu Trúc ở Bình Ðịnh có cá chình phân bố, hằng năm cung cấp một lượng cá giống quí cho nhân dân trong vùng để nuôi.
2. Khai thác cá chình hương:
Có ba phương pháp khai thác cá chình hương ngoài tự nhiên là :
Dùng đèn tập trung cá theo tập tính huớng quang của nó vào ban đêm rồi dùng vợt để vớt.
Ðặt lưới đăng cố định ở cửa sông nơi có cá con phân bố để đánh bắt;
Dùng 2 thuyền lưới vây để vây cá ở cửa sông ven biển rồi phân loại giữ lại cá chình còn cá khác thì bỏ đi.
3. Vận chuyển cá chình hương:
Có hai phương pháp vận chuyển cá chình hương từ nơi khai thác đến nơi ương cá giống:
Vận chuyển bằng khay gỗ.
– Kích thước khay (dài x rộng x cao) = 60x40x15cm. Ðáy khay ở dưới đục lỗ và lót lưới cho cá khỏi tuột ra ngoài, 5-6 khay chồng lên nhau thành một chồng khay, khay trên cùng đựng nước đá, nước đá chảy ra làm ướt cá ở các khay phía dưới vừa hạ nhiệt độ vừa giữ độ ẩm cho da cá, để cá hô hấp;
– Mật độ vận chuyển, với kích thước khay như trên, nếu cá hương thuộc loại còn màu trắng mỗi khay có thể vận chuyển 1,5 kg cá. Nếu cá đã chuyển sang màu đen, mỗi khay vận chuyển 2 – 4kg cá.
Vận chuyển bằng túi nilông có bơm ôxy
Túi 2 lớp có kích thước 33x33x70cm, sau khi cho nước, cho cá, bơm ôxy đóng túi lại cho vào thùng giấy kích thước 66 x 33 x 36 cm để vận chuyển. Mỗi thùng hai túi ni lông chứa cá giữa hai túi cá là một túi đựng nước đá để hạ nhiệt cho cá.
Với việc đóng gói như trên, thời gian vận chuyển an toàn là 24 giờ.
* Chú ý:
Trước khi vận chuyển 1 ngày không cho cá ăn, cần nhốt cá vào giai, đặt chỗ nước trong, có dòng chảy để luyện 24-26 giờ cho cá quen môi trường chật hẹp;
Phải hạ nhiệt độ cho cá xuống 8-10oC, mới cho đóng vào túi, làm cho cá ở trạng thái ngủ, ít hoạt động, nhiệt độ hạ từ từ, không vượt quá 5 – 8oC một lần;
Khi đóng túi mật độ không được vượt quá chỉ tiêu trên; ôxy không được quá ít cũng không được quá nhiều đều không có lợi cho cá; không được đè vật nặng lên trên túi giấy; tính toán thời gian vận chuyển hợp lý cho mỗi lần vận chuyển; nếu thời gian vận chuyển quá dài phải mở túi ra thay nước, bơm lại ôxy; thời gian vận chuyển quá dài, mật độ vận chuyển phải giảm tương ứng;
Vận chuyển đến nơi, thả cả túi nilon xuống ao để nhiệt độ trong, ngoài túi bằng nhau mới mở túi cho cá ra ngoài.
4. Nuôi cá hương lên cá chình giống:
*Ương từ cá vớt được ngoài tự nhiên có trọng lượng 0,5 – 1 g/con lên cỡ 10 – 15 g/con. Quá trình gồm các bước:
Tiêu độc cho cá.
Dùng 1 trong 3 loại hoá chất để tiêu độc cho cá :
– KMnO4 : 1 – 3 ppm;
– CuSO4 : 0,3 – 0,5ppm;
– Formalin : 1 – 3 ppm.
Hoặc ngâm cá trong dung dịch nước muối 5 – 7%o, từ 1 – 2 ngày, hoặc 15 – 30 %o từ 15 – 30 phút.
Ao ương cá chình .
– Diện tích ao ương thứ nhất 50-100m2, nước sâu từ 50-60 cm;
– Diện tích ao ương thứ hai 100 – 200m2, nước sâu từ 70 – 80cm;
– Diện tích ao ương tháng thứ ba 300 – 400m2, nước sâu từ 70 – 80 cm.
Nhiệt độ nước ao nuôi cá chình .
Tốt nhất là 28oC, dưới 22oC cá dễ bị bệnh nấm thuỷ mi bám quanh thân. Nếu nhiệt độ khống chế được ở phạm vi 25 – 29oC, cộng các điều kiện quản lý chăm sóc tốt, tỷ lệ sống có thể đạt 80 – 95% và 20% cá nuôi trong năm (từ cá hương) có thể thành cá thương phẩm.0,3 – 0,5 kg cá hương/m3 nước bể ương.
Cho cá chình ăn
– Ngày thứ nhất đến ngày thứ hai cho ăn Cladocera;
– Ngày thứ ba đến ngày thứ tư cho ăn hồng trần;
– Ngày thứ năm cho ăn hồng trần nghiền vụn trộn với 10 – 30% thức ăn tổng hợp. Sau đó mỗi ngày tăng thêm 10% thức ăn tổng hợp đến ngày thứ 10 thức ăn tổng hợp chiếm 80%. Từ ngày thứ 15 trở đi hoàn toàn dùng thức ăn tổng hợp. Lượng thức ăn tổng hợp được tính bằng 10 – 15% trọng lượng cá trong ao, ngày cho ăn 2 lần vào lúc 7 – 8 giờ sáng và 4 – 5 giờ chiều.
Giai đoạn cho ăn hồng trần, lượng hồng trần được tính bằng 30 – 35% trọng lượng cá trong ao và ngày cho ăn 3 lần vào sáng, chiều, tối.
Nếu nhiệt độ dưới 15oC chỉ cho ăn 1 lần hoặc không cho ăn.
Khi cho ăn không sục khí, tập dần cho cá chỉ ăn ban ngày và khu vực cho cá ăn không cần che tối.
Thức ăn cho cá chình phải mềm cá mới ăn được nhưng không quá mềm dễ tan trong nước.
Nên thêm dầu dinh dưỡng vào thức ăn và trộn đều rồi mới cho cá ăn.Quản lý chăm sóc cá chình .
Phải đảm bảo ao ương đạt các chỉ tiêu sau:
a) Các chỉ tiêu hoá học trong ao ương cá chình .
§ Mặc dù có khả năng chịu đựng hàm lượng ôxy thấp rất tốt, nhưng để cá chóng lớn hàm lượng ôxy hoà tan trong nước tốt nhất phải đạt 5 mg/l trở lên, dưới 4 mg/l cá không lớn được;
§ pH = 7 – 8,5;
§ NH4 – N : <2 ppm, NO3-N : <0,2 ppm;
§ Vượt quá chỉ tiêu trên cá sẽ bị bệnh viêm nang, viêm ruột;
§ Ðộ trong trên dưới 40 cm, không được dưới 20 cm.
b) Quản lý cá chình hằng ngày.
§ Hằng ngày phải xi phông đáy ao, hút bớt phân rác ở đáy ao làm giảm lượng NH4– N gây độc cho cá, sau đó bổ sung nước mới, lượng nước mới được bổ sung hằng ngày bằng 1/2 lượng nước trong ao;
§ Ðặt máy sục khí tăng ôxy hoà tan trong nước. Máy sùc khí có thể dùng bơm nén khí 0,03m3/giây, mỗi máy dùng cho 40 viên đá bọt. Cứ 2,5 m3 nước dùng 1 viên đá bọt đủ đảm bảo mỗi lít nước 5 mg ôxy hoà tan.
§ Hoặc có thể dùng máy quạt nước, mỗi ao đặt 2 máy 0,55 KW vừa cấp khí vừa tạo thành dòng chảy trong ao.
c) Phân loại cá chình để nuôi.
– Quá trình ương nuôi cá phân đàn rất nhanh nên phải phân loại kích cỡ lớn, bé để nuôi tiếp cho thích hợp, thông thường 25 – 30 ngày phân cỡ một lần, nếu cá lớn nhanh thời gian phân đàn có thể rút ngắn hơn nữa;
– Trước khi phân đàn 12 tiếng không cho cá ăn. Sau khi phân loại xong nửa tiếng cho cá ăn lại như bình thường.
d) Có thể nuôi ghép cá chình với các loại cá khác.
– Cá chình có thể nuôi với cá mè trắng, mè hoa, cá chép, cá diếc để ăn sinh vật phù du trong ao, làm sạch nước ao có lợi cho cá chình và thu thêm được sản phẩm trong ao nuôi;
– Tỷ lệ thả ghép là cứ mỗi 100m2 ao ương cá chình thả thêm 4 – 5 con vừa mè trắng, mè hoa, cá chép hoặc cá diếc.
5. Kỹ thuật nuôi cá chình thương phẩm:
Nuôi trong bể xây bằng gạch hoặc bằng xi măng.
Ðây là hình thức nuôi cao sản, vì vậy đòi hỏi phải có các điều kiện sau đây:
Phải có dòng nước chảy trong ao;
Phải nuôi cá chình bằng thức ăn công nghiệp chế biến riêng cho cá chình;
hải được quản lý chăm sóc chu đáo;
Mật độ 20 – 25 con/m2, mật độ cao 300 – 350 con/m2.
Bảo đảm các chỉ tiêu trên, năng suất có thể đạt được 30 – 45 tấn/ha (tức 3 – 4,5 kg/m2) năng suất cao có thể đạt 105 – 120 tấn/ha (tức 10,5 – 12 kg/m2).
Thức ăn nuôi cá chình phải có tỷ lệ đạm 45%, mỡ 3%, cellulo 1%, can xi 2,5%, phôtpho 1,3% cộng thêm muối khoáng, vi lượng, vitamin thích hợp. Nói chung tỷ lệ bột cá chiếm khoảng 70 – 75%, tinh bột 25 – 30% và một ít vi lượng, vitamin.
Thức ăn của cá có tỷ lệ bột cá khá cao, mỡ nhiều nên dễ hút ẩm, dễ mốc, phải chú ý bảo quản tốt, thời gian bảo quản không quá 2 tháng.
Cũng như với các giống, khi cho ăn, thức ăn phải được thêm nước, thêm dầu dinh dưỡng trộn đều làm thành loại thức ăn, mịn mới cho cá ăn.Trước khi phân cỡ để cá nhịn từ 1 – 2 ngày, đùa ao để cá bài tiết hết thức ăn trong bụng, dùng sàng nhẵn để phân loại cá, dùng vợt không dùng tay bắt cá.
Quản lý nước ao như giai đoạn ương cá giống.
Nuôi ghép cá chình với các loài cá khác.
Có thể nuôi ghép cá chình với cá mè, cá trắm. Mật độ cá mè, cá trắm là 4.000 – 5.000 con/ha, mỗi ngày cho cá ăn 1-2% trọng lượng cá chình có trong ao, còn lại ăn động vật đáy trong ao.
* Chú ý:
Ðáy ao là cát hoặc cát bùn. Bờ ao phải cao hơn mặt nước ít nhất là 60cm, ao không rò rỉ, nước trong sạch, pH>6,8, ít bị ảnh hưởng của nước mưa.
Không nuôi ghép cá chình trong ao cá giống mè, trắm.
Giống cá chình phải đều cỡ khoẻ mạnh, không dùng giống cá loại của năm trước để lại. Thu hoạch cá mè, cá trắm trước bằng lưới sau đó tháo cạn nước, để lại 10-20 cm để thu hoạch cá chình.
Lợi dụng đặc điểm hướng quang của cá, ban đêm thắp đèn sáng tập trung cá lại rồi dùng vợt xúc. Hoặc cũng có thể dùng lưới điện để thu hoạch.
Năng suất trung bình từ 1,2 – 1,3 tấn/ha.
Nuôi cá chình trong ao đất.
Chọn ao có bờ cao hơn mặt nước lúc cao nhất 60 cm trở lên, phần trên bờ ao từ 60 – 80 cm, xây gạch hoặc có gờ lưới không cho cá vượt ra khỏi ao, đáy ao là cát hoặc cát bùn, bờ và đáy ao không thẩm lậu, rò rỉ, tháo và lấy nước thuận tiện, gần nguồn điện để chạy máy sục khí hoặc chế biến thức ăn cho cá.
Số lượng cá giống lúc thả 120.000 – 150.000 con/ha, cỡ từ 10 – 15 g/con. Lượng thức ăn hằng ngày bằng 2-3% trọng lượng cá trong ao.
Nuôi trong ao đất không cần phân cỡ như trong bể xây, quản lý chăm sóc hàng ngày như ao nuôi cá giống, năng suất trung bình 20 – 25 tấn/ha.1. Đặc điểm sinh học của cá chình:
Môi trường
Cá chình là loài cá có tính thích ứng rộng với độ mặn, cá có thể sống được ở nước mặn, nước lợ, nước ngọt.
Cá thích bóng tối, sợ ánh sáng nên ban ngày chui rúc trong hang, dưới đáy ao, nơi có ánh sáng yếu, tối bò ra kiếm mồi di chuyển đi nơi khác.
Nông dân.com