- Tiến
hành điều tra sơ bộ về hiện trạng môi trường các nhà máy và toàn khu vực
Qua
khảo sát 23 đơn vị CBTS Tân Hải, cùng với việc tổng hợp các tài liệu khảo sát,
thanh tra môi trường thời gian gần đây, cho thấy chất thải của các doanh nghiệp
CBTS gồm 3 loại chính: Rác thải rắn, khí thải và nước thải.
+ Chất
thải rắn gồm rác thải thường (rác thải sinh hoạt và rác không nguy hại) và rác
thải nguy hiếm (thùng dầu mỡ, bóng đèn, giẻ_ cặn dầu.v.v...). Tuy nhiên, khối
lượng không nhiều. Rác thải thường tại các doanh nghiệp hiện nay đều được thu
gom bởi công ty môi trường đô thị huyện Tân Thành. Khối lượng chất thải rắn
nguy hại tuy ít nhưng lại là mối lo ngại vì hầu hết các doanh nghiệp không có hợp đồng thu gom loại chất thải
này với cơ quan quản lý rác thải, và việc quản lý tại địa phận nhà máy cũng
chưa đúng quy cách vệ sinh môi trường.
+ Chỉ
tiêu nước thải của tất cả các doanh nghiệp được điều tra có chỉ số COD, BOD5,
coliform vượt
tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Tổng số 10 mẫu phân tích nước thải công nghiệp với
16 chỉ tiêu các chất khác nhau trong mỗi mẫu, cho thấy, cả 10/10 mẫu đều có mùi
hôi thối; 100% số mẫu phân tích có chỉ tiêu chất rắn lơ lửng TSS vượt TCCP
5945-2005 (giới hạn B) từ 1,24-32 lần; 8/10 mẫu có tổng phốt pho (T-P) vượt
TCVN 4,5-25 lần; 100% số mẫu có thành phần BOD5 vượt 1,7-117,5 lần. COD của
10/10 mẫu đều vượt 1,46-159,3 lần. Tổng ni tơ (T-N) cả 10 mẫu đều vượt từ
1,13-1,9 lần.
+ Qua
phân tích tổng số 23 mẫu khí đại diện cho 7 loại hình doanh nghiệp CBTS cho thấy
chỉ tiêu H2S của Công ty TNHH chế biến thuỷ sản Tiến Đạt vượt hơn
100 lần tiêu chuẩn cho phép, DNTN Đông Hải vượt 3 lần tiêu chuẩn cho phép, DNTN
Mỹ Sương vượt gần 3 lần tiêu chuẩn cho phép và khí thải xung quanh khu tập
trung chế biến thuỷ sản Hội Bài vượt 14 lần tiêu chuẩn cho phép. Chỉ tiêu NH3 tại
DNTN Đông Hải vượt tiêu chuẩn cho phép hơn 4 lần, DNTN Phúc Lộc vượt tiêu chuẩn
cho phép 1,1 lần. Nhìn chung, các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực chế biến bột cá
thường bị ô nhiễm khí nặng hơn cả vì khí thải phát ra từ lò đốt than và các lò
sấy bột cá. Tuy vậy, môi trường khí của các doanh nghiệp khác cũng bị bao trùm
bởi mùi hôi đặc trưng của các nguyên liệu sản xuất. Kêt quả phân tích 5 mẫu khí
tại các khu vực xung quanh khu công nghiệp, có 4/5 mẫu có chỉ tiêu H2S
vượt TCCP (cao nhất tới 14,6 lần).
Kết quả phân tích trên của đề tài một lần nữa khẳng định kết
quả kiểm tra của Sở TNMT Bà Rịa Vũng Tầu tháng 8-2007 (như đã tổng hợp trong phụ
lục để tham khảo) là phản ánh đúng thực tế và các vấn đề về ô nhiễm khí vẫn
chưa được cải thiện.
-
Điều tra khảo sát tình hình xử lý môi trường các doanh nghiệp
Chất
thải rắn của các cơ sở CBTS tuy nhiều, nhưng hầu hết đều có thể tái sử dụng cho
các ngành chế biến khác hoặc làm phân bón. Chất thải rắn nguy hại chủ yếu là dầu
cặn, thùng đựng dầu mỡ...bóng đèn huỳnh quang, xỉ than- tuy ít nhưng tất cả các
doanh nghiệp đều chưa có biện pháp quản lý hợp lý nào. Tuy vậy, mối quan tâm lớn
nhất của các doanh nghiệp CBTS vẫn là ô nhiễm nước và khí thải công nghiệp.
à Khí thải của các doanh nghiệp
CBTS cơ bản bị phát thải từ lò cung cấp nhiệt và lò sấy nguyên liệu. Loại trừ
doanh nghiệp chỉ chuyên sản xuất nước đá (Công ty Dũng Hồng) không gây ô nhiễm không
khí, 22/23 DN khác đều
phát mùi hôi đặc trưng của CBTS mà hiện nay chưa có biện pháp giải quyết. Tuy
nhiên, trong số đó đáng quan tâm nhất là các DN chế biến bột cá và, chế biến bột
cá + Hải sản là khí thải có mức ô nhiễm vượt TCMT đáng lưu ý nhất. Cho đến thời
điểm khảo sát, mới có 12/22 doanh nghiệp có hệ thống xử lý khí thải. Trong đó
chỉ có 7/12 DN có đủ 2 hệ thống xử lý, nhưng chỉ có 1/7 hệ thống này là có khí
thải đầu ra đạt TCVN (Công ty TNHH Nghê Huỳnh). 6/7 Cty còn lại tuy có đủ cả 2
hệ thống xử lý
nhưng công nghệ đơn giản chưa triệt để
xử lý ô nhiễm khí thải. 5/12 DN chỉ có 1 hệ thống xử lý khí cho lò đốt hoặc lò
sấy. Hệ thống xử lý hết sức đơn giản, khí
từ quá trình sấy bột cá được hấp thụ mùi bằng than hoạt tính kết hợp với phun
nước dạng sương rồi
thải vào MT. Khí thải từ đốt
than, củi được đi qua cyclon để
lắng bụi rồi thải vào MT. Vì vậy nên có
DN chỉ có /4 hệ thống
đã xây dựng đạt TC khí thải theo quy định hiện hành (Đa Năng, Tuấn Thanh), còn
lại các DN khác - mặc dù khí đi qua cả 2 hệ thống xử lý vẫn có kết quả phân
tích mẫu ô nhiễm.
à Nước thải/ Tổng khối lượng nước
thải của các doanh nghiệp thải vào môi trường từ 2.500- 2.872 m3/ngày.
Cho đến thời điếm điều tra trong quá trình thực Hiện đề tài này, vẫn còn 3
doanh nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải {Long Sơn, Thành Đạt, Dũng
Hồng). Nhưng trong số 20 doanh nghiệp đã có hệ thống xử lý thì hầu như chưa có
DN nào có nước thải đạt TCVN cột B-5945-2005 (nước dành cho nuôi trồng thủy
sinh) với nhiều lý do: hoặc là hệ thống vận hành không nghiêm túc, hoặc công
nghệ xử lý không đạt yêu cầu, hoặc có hệ thống nhưng không vận hành.
-
Nghiên cứu đưa ra các giải pháp bảo vệ môi trường : 2 phương án chính được đề
ra:
- Thứ
nhất là giải pháp công nghệ: tùy tình trạng khác nhau của các doanh nghiệp, mà
nên áp dụng xây dựng hệ thống xây mới toàn bộ hoặc bổ sung. Hướng chủ đạo là học
theo các công nghệ hiện nay đang áp dụng đã đạt được kết quả tốt. Các công nghệ
đề ra cho cả giải pháp xử lý độ ẩm, rác thải nguy hại, nhưng trọng tâm đề xuất
chính cho xử lý khí và nước thải trong CBTS đã trình bày trong báo cáo với các
nội dung cơ bản như sau:
* Mùi
hôi đặc trưng của ngành CBTS không gây nhiều độc hại, nhưng gây mất mỹ quan cho
thành phố du lịch luôn xảy ra trên phạm vi rộng là rất khó giải quyết. Giải
pháp đề xuất là khống chế các vùng phát sinh mùi trong khu vực sản xuất khép
kín để sử dụng thiết bị hút khử mùi liên họp.
* Các
DN cần đầu tư mới (với các DN chưa xây dựng hệ thống xử lý khí và nước thải)
+
Đầu tư xây dựng bổ sung hoàn thiện theo định hướng học tập hệ thống công nghệ xử
lý khí của công ty Nghê Huỳnh.
+
Xử lý nước thải: phối hợp xây dựng các hệ thống xử lý cục bộ cho từng DN và hệ
thống xử lý chung từng cụm DN ( mã số 1003010).
Hệ
thống công nghệ cục bộ cho từng DN đựợc đề xuất là hệ thống xử lý là giải pháp
sinh hoá học kết hợp. Trên cơ sở này, từng DN được khuyến cáo bổ sung những gì
cho hệ thống xử lý nước thải hiện tại.
Bên ngoài các doanh nghiệp: đây là giải pháp an toàn - đề tài đề
ra xu hướng giải
quyết làm sạch triệt để nước thải toàn khu trước khi thải vào môi trường, đề
tài đề xuất phương án xây dựng hệ thống xử lý bổ sung vành đai ngoài - kiểm
soát trước cửa xả vào nguồn nhận, thông qua việc thu gom toàn bộ nước thải sau
các hệ thống xử lý
cục bộ của từng DN dồn vào 3 khu vực chính (theo sự khoanh vùng trên bản đô khu
vực), để xử lý bằng
giải pháp hồ sinh học.
(Công suất xử lý khu vực 1 là 693m3, khu vực 2 là 931 m , khu vực 3
là 1.238m3). Theo tính toán ban đầu trên cơ sở khoa học về công nghệ
hồ sinh học và tiêu chuẩn TCXD-51-84 của Bộ Xây dựng, tổng diện tích đất dành
cho hồ khu vực I vào khoảng 2,168ha, khu vực II 2,88 ha, và khu vực III vào khoảng
3,852ha. Theo khối lượng nước thải này, dự kiến sẽ phải xây dựng các khu vực hồ
với thể tích khu vực I khoảng 16.000 m3; khu vực II _21.420m3;
Khu vựuc III _28.500 m3 (tính toán này bao gồm cả gia số dự phòng lưu lượng nước
mưa của khu vực).
- Thứ
hai là giải pháp quản lý hành chính và giám sát giảm thiểu ô nhiễm môi trường:
Báo
cáo đã trình bày những chỉ số môi trường cần phải giám sát định kỳ, đề xuất các
giải pháp quản lý chung cho tất cả các DN để đảm bảo phát triển bền vững môi
trường như: nâng cao hiệu quả phòng ngừa từ khâu lập kế hoạch đầu tư, sản xuất,
cho đến các biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu ô nhiễm trong qúa trình hoạt động
của tất cả các DN- và có những đề xuất riêng cụ thể cho từng phân loại nhóm DN
Tồn
tại lớn nhất dẫn đến các hậu quả về môi trường hiện nay của CBTS Tân Hải là do
chúng được xây
dựng không phép. Vì nguyên nhân này, dẫn đến các mục tiêu đảm bảo môi trường
không được quy hoạch ngay từ ban đầu. Các hệ thống xây dựng hoàn toàn bị động với
công nghệ không đồng bộ. Vì vậy, nên tuy kỹ thuật lập kế hoạch môi trường ngav
từ giai đoạn đầu tư và định hướng sản xuất được đề ra nhưng chỉ có tính tham khảo
cho các nhà quản lý các dự án công nghiệp tương lai và khó ứng dụng được với
các nhà máy đã xây xong hoặc đang hoạt động.
Trong số các DN đã có hệ thống
xử lý, vì chưa có chế tài nghiêm minh và tổ chức giám sát thường xuyên, nên hầu
hết đều trốn tránh cơ quan chức năng, không vận hành nghiêm túc vì mục đích giảm
chi phí sản xuất. Do đó bên cạnh các giải pháp quản lý có tính lý thuyết, thì
việc thiết lập một bộ máy giám sát thường xuyên, liên tục, định kỳ và bất kỳ, kết
hợp với chế tài xử lý kịp thời, mạnh mẽ và nghiêm minh đối với các hiện tượng
vi phạm- là định hướng cần thiết phải thực hiện- mới có thể duy trì một môi trường
sản xuất công nghiệp sạch và bền vững.
|