Đề tài đã khảo sát sự phân bố,
đặc tính sinh vật học 99 cá thể đã di dời 90 các thể TTTV có kích thước chiều
dài vỏ từ >20cm, từ các vùng biển phụ cận đến 03 khu khoanh nuôi phục hồi thực
nghiệm, cấu trúc quần thể kích thước dài vỏ khoảng 45 cm có tỷ lệ cá thể chiếm
cao nhất trên 35% số lượng quần thể.
Kết quả khảo sát cho thấy mật
độ TTTV phân bố tại vùng biển Côn Đảo là 5,33±47,6 cá thể/ha, biến động từ 0 -
20 cá thể/ha. Khu vực biển có sự phân bố cao nhất là quanh hòn Tre Nhỏ với 20
các thể/ha, kế đến là khu vực biển Ông Đụng - Đất Thắm với 9,17 cá thể/ha, vùng
biển thuộc vịnh Đầm Tre và Hòn Cau là >6 cá thể/ha. Trong đó số cá thể có
SCL lớn hơn 20 cm chiếm 90,9%.
Qua ghi nhận cho thấy mật độ
TTTV phân bố tại vùng biển Côn Đảo, trung bình gần 20000 m2 ghi nhận
01 cá thể. Các vùng biển ở xa và ít được lực lượng kiểm lâm kiểm soát có mật độ
phân bố TTTV rất thấp. Với số lượng các cá thể TTTV thành thục phân bố trung
bình gần 2.000 m2 dẫn đến việc đẻ trứng và phóng tinh trùng khó gặp
nhau nên mật độ con non (SCL <20 cm chỉ ghi nhận chiếm 9% tổng số) chiếm tỉ
lệ rất thấp điều này cho thấy quần thể TTTV ở Côn Đảo đang mất cân bằng và khả
năng tuyệt chủng là rất cao trong tương lai gần. Nếu chúng ta không có giải
pháp để phục hồi quần thể TTTV đúng cách và kịp thời.
Tổng số 99 cá thể Trai tai
tượng Vảy (Tridacna squamosa) có kích thước chiều dài vỏ (SCL) >20cm, trong
số 90 cá thể được ghi nhận trong điều kiện tự nhiên, được di dời vào 3 trạm khoanh
nuôi phục hồi tại 3 vị trí khác nhau (bãi Cát Lớn hòn Bảy Cạnh, Đầm Tre và hòn
Tre Lớn mỗi khu vực 30 cá thể).
Kích thước chiều dài vỏ
(SCL) khi di dời là 44,22±9,58cm, biến động từ 20 - 63cm; chiều rộng vỏ (SCW)
là 28,97±7,07cm, biến động từ 13 - 47cm. Trọng lượng (WBD) là 8,57±1,08cm, biến
động từ 1 - 20cm.
Tỷ lệ sống >94% sự tăng
trưởng SCL của TTTV sau 21 tháng khoanh nuôi phục hồi là 5,40±3,05cm; sau 12
tháng là 2,15±1,55cm. Trong đó:
Sự tăng trưởng SCL của TTTV
tại khu khoanh nuôi phục hồi hòn Bảy Cạnh là 6,67±2,56cm/21 tháng và 4,16±1,50cm/12
tháng
Sự tăng trưởng SCL của TTTV
tại khu khoanh nuôi phục hồi hòn Tre Lớn là 4,19±3,1 lcm/21 tháng và 1,9l±1,54cm/12
tháng
Sự tăng trưởng SCL của TTTV
tại khu khoanh nuôi phục vịnh Đầm Tre là 4,69±2,83cm/21 tháng và 2,27±1,49cm/12
tháng
Kết quả số cá thể di dời về
3 khu khoanh nuôi phục hồi tỷ lệ sống trên 94% số lượng cá thế trong 21 tháng,
điều kiện sinh thái của TTTV đang rất thuận lợi giống như ở môi trường tự
nhiên. Nên việc di dời về các khu khoanh nuôi để sinh trưởng, phát triển tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đẻ trứng và thụ tinh được thuận lợi để duy trì phục hồi
nguồn giống
Các cá thể sau khi di dời về
khu khoanh nuôi phục hồi chúng tôi đã ghi nhận sự tăng trưởng kích thước chiều
dài vỏ (SCL) của chúng sau 21 tháng là 5,40cm. Đã ghi nhận 04 cá thể TTTV con tại
khu khoanh nuôi hòn Tre Lớn 01 cá thể và Đầm Tre 03 cá thể.