Người ta cho rằng Dương Quý Phi đời nhà Đường
(Trung Quốc) nhờ ăn quả vải thường xuyên mà đã trở thành một tuyệt thế mỹ nhân
thời đó. Theo các sách thuốc cổ, việc thường xuyên ăn vải giúp bổ não, lợi tỳ
vị, phục hồi rất tốt cho người mới ốm dậy, suy nhược, gầy yếu.
Vải cũng
làm đẹp da, rất có lợi cho sức khỏe phụ nữ.
Vải có
hàm lượng đường cao, giàu acid hữu cơ, caroten, các muối khoáng Ca, Fe, P, các
vitamin B1, B2, C. Ngoài việc dùng ăn tươi, quả vải còn có tác dụng chữa bệnh
từ lâu đời với tên thuốc trong y học cổ truyền là lệ chi.
Các sách
thuốc cổ có ghi: “Thường xuyên ăn vải sẽ bổ não, ích trí, khai vị, lợi tỳ, làm
mạnh khỏe, rất tốt cho người mới ốm dậy, suy nhược, gầy yếu; dưỡng da làm đẹp
nhan sắc chữa được nhiều bệnh. Cùi vải phơi khô là thuốc bổ nguyên khí, rất có
lợi cho sức khỏe của người cao tuổi và phụ nữ”.
Cùi quả
vải (lệ chi nhục) được dùng
phổ biến dưới dạng nước giải khát với cách chế như sau: Chọn 1 kg quả vải chín
đỏ, bóc vỏ và hạt (để riêng), chú ý không làm nát cùi. Lấy 3 lít nước đã hòa
tan 0,5 kg đường kính và 5g acid citric, đun sôi trong khoảng 5-10 phút.
Khi nước
còn ấm, cho cùi vải vào rồi đựng trong lọ kín, đun cách thủy khoảng 20 phút để
diệt khuẩn. Để nguội, nút kín. Khi dùng, lấy nước và cùi vải ra cốc, pha thêm
nước đun sôi để nguội cho đủ ngọt để uống. Đây là loại đồ uống ngon, mát, rẻ
tiền trong mùa hè với tác dụng thanh nhiệt, chỉ khát, bổ dưỡng, tiêu độc.
Chống
tiêu chảy: Cùi vải phơi khô
10 quả, phối hợp với đại táo 5 quả, thái nhỏ, sắc với 200 ml nước còn 50 ml,
uống trong ngày là thuốc dưỡng huyết, bổ tỳ.
Chữa nấc: lấy cùi vải khô 7 quả, gừng tươi 6g, nấu với
đường đỏ.
Nhưng
cũng có người cho rằng ăn nhiều vải sẽ phát nhiệt, rối loạn chuyển hóa đường
trong cơ thể, gây chảy máu cam, sinh mụn nhọt, nhất là đối với trẻ nhỏ.
Hạt vải
(lệ chi hạch) cũng được
dùng làm thuốc. Cách chế biến là bổ đôi, đồ qua hơi nước, rồi phơi khô để tránh
bị sâu mọt. Thường dùng loại hạt to, mẩy, màu đen sáng bóng. Nó có tác dụng
giảm đau trong các bệnh tinh hoàn sưng đau, thống kinh, dạ dày lạnh đau, thoát
vị bẹn. Liều dùng hằng ngày 3-6g dưới dạng thuốc sắc.
Chữa đau
bụng kinh hoặc sau đẻ: Hạt vải
đốt tồn tính (không để cháy thành than) 20g, hương phụ sao 40g, tán nhỏ, trộn
đều, mỗi lần uống 8g với nước muối nhạt hoặc nước cơm, ngày 2-3 lần.
Chữa tinh
hoàn sưng đau: Hạt vải,
vỏ quýt xanh (thanh bì), quả hồi ba thứ lượng bằng nhau, sao qua, tán nhỏ, rây
bột mịn, uống mỗi lần 8g với rượu.
Chữa đau
nhức răng: Hạt vải
gọt vỏ ngoài, lấy nhân, sấy khô, tán bột, rây mịn. Khi dùng, chấm thuốc vào chỗ
răng đau làm nhiều lần trong ngày.