1. Chuẩn bị ao nuôi
Ao nuôi cá Bống kèo là những ao đất thông thường. Ở vùng ven biển có thể sử dụng ao nuôi tôm sú thâm canh, bán thâm canh hoặc ao nuôi quảng canh để nuôi luân canh cá Bống kèo. Vùng làm muối có thể luân canh nuôi cá Bống kèo trong ruộng muối vào mùa mưa khi nước bị giảm độ mặn không sản xuất được muối.
* Diện tích ao nuôi:
Từ những kinh nghiệm thực tế nuôi cá Bống kèo ở các địa phương cho thấy, ao nuôi có diện tích thích hợp nhất từ 1.000 – 2.000 m2.
* Trước khi tiến hành thả cá giống, phải chuẩn bị và cải tạo lại ao thật kỹ, bao gồm các khâu sao đây:
- Tát cạn ao, diệt hết cá tạp, cá dữ như cá Chẽm, cá Nâu, cá Rô phi và tất cả các loài cá, các loài địch hại khác. Nên dùng rễ dây thuốc cá (Derris elliptica Benth) để diệt tạp, với liều lượng 1kg rễ tươi cho 100m3 nước ao. Cách làm như sau: Để nước trong ao còn độ sâu 8 – 10cm và tính toán thể tích nước có trong ao, rễ dây thuốc cá đập dập, ngâm trong nước 5 – 6 giờ rồi vắt lấy nước, hòa loãng, sau đó té đều khắp mặt ao. Tất cả cá sẽ chết hết và vớt đi rồi tháo hết nước hoặc bơm cạn ao để phơi đáy.
- Cày hoặc xới đáy ao 1 lớp đất mỏng (5 – 7 cm) để đáy ao thoáng khí, tạo điều kiện cho sinh vật đáy phát triển làm nguồn thức ăn tự nhiên cho cá.
- Bón lót cho ao bằng phân hữu cơ, liều lượng 20 – 30 kg/100m2 ao.
- Rải vôi bột xuống đáy ao để hạ phèn, diệt tạp, diệt các mầm bệnh, lượng dùng 8 – 12kg/100m2, sau đó có thể xới đảo bùn đáy để hoà trộn vôi và phân hữu cơ.
- Ao cần phơi đáy 2 – 3 ngày. Những ao ở vùng bị nhiễm phèn thì không phơi đáy
Những ao đã nuôi tôm sú trước đó thì không cần bón lót phân hữu cơ, chỉ nên diệt tạp và cá dữ bằng rễ dây thuốc cá, rải vôi, hạ phèn và diệt mầm bệnh trong đáy ao.
- Lấy nước vào ao qua lưới chắn lọc để tránh địch hại và cá dữ, cá tạp lọt vào ao ăn hại cá và tranh giành thức ăn với cá nuôi. Khi mức nước đạt 0,3 – 0,4m thì có thể thả cá giống. Những ngày sau đó tăng dần mức nước ao cho đến khi đạt theo yêu cầu (0,8 – 1m).
2. Mùa vụ nuôi
Mùa vụ nuôi Bống kèo từ tháng 4 - 5 khi bắt đầu có con giống tự nhiên, ngoài ra người nuôi còn sử dụng ao nuôi tôm để nuôi bống Kèo sau khi nuôi tôm vụ 1 (vào tháng 7 -8).
Kinh nghiệm ở một số địa phương cho thấy, nếu nuôi sớm vào tháng 4 – 5 thì cá phát triển tốt, nhất là ở các tháng đầu tiên có điều kiện môi trường thuận lợi cho cá do nhiệt độ cao nhưng không biến động nhiều, chưa có mưa nhiều nên độ mặn và các yếu tố thuỷ lý hoá ít biến động. Nếu nuôi vào các tháng 7 -8, thời tiết và môi trường có nhiều biến động do mưa lớn, độ mặn giảm, nhiệt độ thường thay đổi chênh lệch lớn và nhất là các tháng cuối năm nhiệt độ hạ thấp nên ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của cá.
3. Kích cỡ và mật độ thả giống cá nuôi
- Kích cỡ cá giống:
Nên chọn cá giống khoảng 3 – 5cm hoặc 4 – 6cm, cá giống ương nuôi trong ao là tốt nhất vì sẽ có kích cỡ đồng đều hơn, khoẻ hơn vì đã thích nghi với điều kiện trong ao. Chọn cá khoẻ mạnh, hoạt động nhanh nhẹn, không bị nhiễm bệnh, màu sắc tươi sáng, có nhiều nhớt.
Nếu thả con giống còn quá nhỏ không qua ương nuôi thì tỷ lệ hao hụt rất lớn, có khi tới 60 – 70%, do cá yếu và chưa thích nghi với điều kiện môi trường mới trong ao nuôi. Ngoài ra tỷ lệ lẫn giống tạp khác còn cao do quá trình ép lọc vẫn chưa loại bỏ hết, nên có tình trạng cá tạp tranh giành thức ăn của cá nuôi, làm giảm hiệu quả kinh tế.
- Mật độ thả nuôi:
Tuỳ theo điều kiện ao, khả năng quản lý chăm sóc và cỡ cá, có thể thả nuôi với mật độ 30 – 60 con/m2, trung bình 50 con/m2. Nếu cỡ cá nhỏ (3cm) nên thả mật độ cao hơn so với cỡ cá lớn (5 – 6cm) để trừ hao hụt trong khi nuôi. Nếu điều kiện quản lý và kiểm soát chất lượng nước chủ động, có thể tăng mật độ nuôi lên cao hơn 60 con/m2.
4. Chăm sóc và quản lý ao nuôi
a. Thức ăn
Cá Bống kèo có tính ăn tạp, ngoài thức ăn tự nhiên có trong ao như phù du động thực vật, sinh vật đáy, rong tảo sống bám, mùn bã hữu cơ… cá còn ăn được các thức ăn do con người cung cấp như ăn thức ăn chế biến và thức ăn viên công nghiệp.
Để duy trì thức ăn tự nhiên, phải định kỳ bón thêm phân hữu cơ đã ủ hoại 10 – 15 kg/100m2/tuần hoặc 100 – 150g phân vô cơ (DAP, NPK)/tuần. Thức ăn chế biến gồm cám gạo (60 – 70%) và bột cá (30 – 40%) được trộn đều và nấu chín, trộn thêm premix khoáng và vitamin A, D, E, C (tổng cộng 0,2 – 0,3% tổng trọng lượng thức ăn). Hàm lượng đạm trong thức ăn dao động từ 25% ở 2 tháng đầu, sau đó giảm dần xuống 22% rồi 20% ở tháng thứ 3,4 và 18% cho hai tháng nuôi cuối. Khẩu phần ăn 4 – 6% trọng lượng thân/ngày. Mỗi ngày cho cá ăn 2 lần vào buổi sáng và chiều mát.
Cho cá ăn thức ăn viên công nghiệp cần phải chọn loại kích cỡ thức ăn phù hợp với độ lớn và kích thước miệng để cá có khả năng sử dụng thức ăn hiệu quả nhất. Hàm lượng đạm trong thức ăn cũng dao động từ 25 – 28%, giảm dần theo tuổi của cá. Khẩu phần ăn thức ăn viên công nghiệp từ 1 – 1,5% trọng lượng thân/ngày và cho cá ăn ngày 2 lần vào sáng sớm và chiều mát.
Ngoài ra, trong thời gian nuôi, thức ăn nên có bổ sung thêm một số loại men tiêu hoá nhằm kích thích cho cá ăn ngon và tiêu hoá thức ăn tốt hơn tránh hiện tượng cá bị chướng bụng, đầy hơi.
b. Quản lý ao nuôi
- Quản lý chất lượng nước:
Nước ao cần được chủ động điều chỉnh tăng cao hoặc giảm thấp phù hợp với các giai đoạn phát triển của cá nuôi. Giai đoạn hai tuần đầu mới thả cá giống, mực nước ao cần đạt 0,4 – 0,5m, sau đó tiếp tục dâng từ từ, mỗi tuần cao hơn 0,2m cho đến khi mức nước đạt tốt đa.
Theo dõi mực nước hàng ngày, kiểm tra các yếu tố thuỷ lý, thuỷ hoá của nước ao như nhiệt độ nước, pH, độ trong, độ mặn. Kiểm tra bờ và cống ao đề phòng bờ bị rò rỉ do cua còng đào hang, lưới chắn bị thủng (do bị mục hoặc cua còng kẹp làm rách lưới). Vào mùa mưa, độ mặn nguồn nước cấp và nước trong ao có xu hướng giảm dần, chú ý độ mặn của nước cấp cho ao phải tương đương hoặc không quá chênh lệch với độ mặn nước ao để tránh cá bị sốc. Độ mặn của nước ao nuôi cá bống Kèo, dù vào mùa mưa cũng không nên để quá thấp dưới 30/00. Định kỳ mỗi tuần thay nước 1 lần, mỗi lần khoảng 30% lượng nước ao. Nếu nước ao bị nhiễm bẩn, màu nước xanh quá đậm hoặc chuyển màu nâu, có mùi hôi thì cần phải thay ngay nước mới trong sạch.
- Phòng trừ địch hại:
Có nhiều loài địch hại săn bắt và ăn thịt cá Bống Kèo như chim Cồng cộc, rắn nước biển (con đẻn), cá Nâu, cá Rô phi, cá Bống mọi, Bống cát…Để phòng trừ địch hại, khâu quan trọng khi cải tạo ao là phải tìm diệt hết mọi cá tạp, cá dữ, khi lấy nước vào ao lúc cấp nước lần đầu hoặc các lần thay nước định kỳ, phải chắn lọc kỹ, không để cá nâu và rô phi, bóng mọi, bóng cát nhỏ lọt vào ao qua đường cấp nước. Đối với chim Cồng cộc, nên đặt các bù nhìn trên bờ ao hoặc treo dây ngang dọc trên mặt ao có gắn các ống bơ (lon) sữa bò nhằm tạo ra tiếng kêu để xua đuổi chim. Có thể dùng ná (giàng thun) để bắn chim và đuổi chim cũng có hiệu quả.
Ngoài ra, để bắt các loài cá Bống cát, Bống mọi, có thể điều tiết mực nước trong ao (dâng cao sau đó hạ thấp 5 – 10cm) khi đó các loại cá bống mọi, bống cát có thể nằm lại ở phần mái bờ mà nước đã rút và ta dùng vợt thu gom chúng lại.
- Phòng trị bệnh cho cá nuôi:
Cá Bống kèo thường gặp một số bệnh như trướng bụng do ăn không tiêu, bệnh lở loét trên thân do ký sinh trùng, đốm trắng trên thân và đầu kèm theo xuất quyết các góc vây do nhiễm vi khuẩn huyết. Ngoài ra cá có thể bị nhiễm bệnh do môi trường nước bị ô nhiễm, do nước ao quá nóng hoặc nhiệt độ biến động quá lớn. Vào các tháng cuối mùa mưa và cuối năm do nhiệt độ môi trường hạ thấp cũng làm cho cá giảm sức đề kháng và dễ nhiễm bệnh hơn trong mùa khô.
Để phòng bệnh cho cá, trước hết phải tuân thủ các khâu kỹ thuật, chọn cá giống khoẻ mạnh, không thả nuôi mật độ quá dày. Trong quá trình nuôi, phải giữ môi trường ao nuôi sạch, không để nước ao bị ô nhiễm. Việc điều tiết mực nước trong ao nuôi nhằm đảm bảo môi trường nước sạch và duy trì độ mặn thích hợp, không quá thấp sẽ làm giảm được nguy cơ nhiễm các loài ký sinh trùng gây bệnh cho cá nuôi. Thức ăn phải đủ khẩu phần, chất lượng và nên bổ sung thêm các Vitamin, quan trọng nhất là Vitamin C (50-60mg/kg thức ăn).
Khi phát hiện cá bị bệnh, phải xác định đúng loài ký sinh hay vi khuẩn gây bệnh để dùng đúng loại thuốc chữa trị và tuyệt đối không sử dụng các loại hoá chất và thuốc kháng sinh đã bị cấm.
5.Thu hoạch cá nuôi
Sau 5-6 tháng nuôi, cá Bống kèo có thể đạt trọng lượng trung bình là 20-30 g/con (30-50 con/kg), tuỳ theo giá cả thị trường, người nuôi chọn thời điểm để thu hoạch. Theo kinh nghiệm của nhiều ngư dân, việc thu hoạch cá bống kèo có nhiều cách, có thể dùng lưới kéo, nhưng cách này không thể thu hoạch hết cá trong ao. Ngư dân lợi dụng đặc tính thích bơi ngược nước của cá bống kèo dùng một loại dụng cụ là “xà lú” để bắt cá chạy ngược nước thì có hiệu quả hơn thu triệt để hơn. Trước khi thu hoạch khoảng 10 ngày, cần giữ cho môi trường ao nuôi thật ổn định. Trước khi thuỷ triều cường thì tháo hoặc tát bớt nước ao, khi bắt đầu thuỷ triều cường thì đưa nước vào ao. Sự chênh lệch mực nước sẽ kích thích cá bống kèo bơi ngược dòng nước chui vào trong xà lú. Sau mỗi đợt thu hoạch lại tát cạn ao hơn và tiếp tục cho nước thuỷ triều vào ao để bắt cá cho đến khi ao cạn hoàn toàn và thu hết cá.
Ngoài ra để thu hoạch những cá còn “ngoan cố” không chịu ngược nước, ngư dân dùng dây thuốc cá với liều lượng thấp rải xuống ao nhằm làm cho cá phải ngoi lên mặt nước và dùng lưới để kéo, nhưng cách bắt này làm cho cá dễ chết, bán không được giá, thường để phơi làm khô cá bống kèo.
Tỷ lệ sống của cá thương phẩm nuôi bằng con giống tự nhiên hiện nay còn chưa ổn định. Theo kết quả khảo sát từ những hộ nuôi cá bống kèo tại vùng Vĩnh Châu - Bạc Liêu, Long Phú (Sóc Trăng) và Bến Tre, cho thấy tỷ lệ sống cá nuôi dao động trung bình từ 15-50 %. Một thực tế là con giống thu từ tự nhiên thường có tỷ lệ lẫn giống các loài cá khác, có khi lẫn giống tới 30%.
Năng suất nuôi trung bình ở các địa phương hiện nay đạt trong khoảng 1000-2000kg/ha. lợi nhuận mang lại do nuôi cá Bống kèo từ vài triệu đồng đến hàng chục triệu đồng/ha.