Cây đậu mèo có tên khoa học là Mucuna prurient thuộc họ đậu Febaceae, có nguồn gốc nhiệt đới châu Phi và châu Á. Ở Việt Nam, đậu mèo là cây bản địa phân bố ở các tỉnh miền núi, đặc biệt từ Quảng Bình trở ra, là cây ưa sáng, chống chịu tốt vói điều kiện môi trường khắc nghiệt như khô hạn, nghèo dinh dưỡng, sâu bệnh hại
Lê Khả Tường thuộc Trung tâm Tài nguyên Thực vật (PRC) đã tiến
hành nghiên cứu, đánh giá giống đậu mèo trong điều kiện khô hạn, đất nghèo dinh
dưỡng, không áp dụng biện pháp phòng trừ sâu bệnh.
Vào vụ hè thu năm 2011, tập đoàn đậu mèo gồm 37 nguồn gien có
nguồn gốc từ ngân hàng gien cây trồng quốc gia đã được nghiên cứu về hình thái,
sinh trưởng, chống chịu và tiềm năng năng suất trong điều kiện không tưới tại
xã An Khánh, huyện Hoài Đức, Hà Nội.
Kết quả đã ghi nhận 80% nguồn gien có chiều dài quả 12,1-18,0
cm, chiều rộng quả < 2,6 cm, dạng hình hơi cong. Tập tính sinh trưởng của
các nguồn gien đậu mèo được chia thành 6 loại hình sinh trưởng là: Hữu hạn, vô
hạn cành đứng, vô hạn cành bò, vô hạn cành nửa bò, vô hạn có quả trên thân
chính và loại hình sinh trưởng khác. 100% các nguồn gien chịu hạn khá ở mức
1-3, trong đó có 9 nguồn gien chịu hạn điểm 1; 25 nguồn gien chịu hạn điểm 2 và
3 nguồn gien chịu hạn điểm 3, có 6 đối tượng gây hại chính trên cây đậu mèo là:
Sâu cuốn lá, nhện, rệp, rỉ sắt, đốm lá và khảm lá.
Tuy nhiên hầu hết các giống đậu mèo đều có khả năng kháng cao
hay nhiễm nhẹ cấp 1 đối với các đối tượng này. Đa số các giống đậu mèo đạt
40-50 quả/cây, 5-7 hạt/quả, khối lượng 100 hạt đạt 100,1-130g/100 hạt, năng
suất cá thể đạt 400-500 g/cây và có tiềm năng năng suất 2,0-3,0 tấn/ha trong
điều kiện khô hạn. Đặc biệt kết quả đã xác định được 8 giống có tiềm năng năng
suất 3,4-5,0 tấn/ha. Đây là nguồn vật liệu quan trọng trong nghiên cứu cây đậu
mèo vì mục tiêu phát triển nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam.