Theo số liệu thống kê năm 2012 của huyện Tân
Thành ghi nhận, diện tích trồng bưởi ở đây khoảng 55,3 ha “Bưởi da xanh chiếm
tỷ lệ trên 90%”, trong đó diện tích trồng mới là 20,9 ha, diện tích cho sản
phẩm là 34,4 ha, năng suất 105,81 tạ/ha, sản lượng 364 tấn. Chất lượng của Bưởi
da xanh rất ngon được nhiều người tiêu dùng ưa thích. Chính vì vậy, sản phẩm
bưởi da xanh rất dễ tiêu thụ và bán với giá khá cao đặc biệt vào dịp lễ, tết,
đó là lý do khiến người trồng Bười da xanh yên tâm đầu tư sản xuất.
Người dân trồng Bưởi da xanh rất vui mừng vì đã
được chính quyền các cấp quan tâm như: Quy hoạch vùng sản xuất bưởi tập trung;
thành lập Hợp tác xã Bưởi da xanh Sông Xoài để thuận tiện trong công tác quản
lý sản xuất và kinh doanh. Mặt khác, Trung tâm Nghiên cứu Cây ăn quả miền Đông
Nam Bộ đang hỗ trợ triển khai dự án chứng nhận VietGAP cho Hợp tác xã. Đây là
cơ hội quan trọng để từng bước hướng người dân liên kết chặt chẽ với nhau trong
quá trình sản xuất, nâng cao giá trị của cây bưởi, đồng thời quảng bá thương
hiệu Bưởi da xanh vươn xa hơn ra thị trường.
Bất cập lớn nhất đối với người dân trồng bưởi
nói chung và Bưởi da xanh nói riêng đó là sâu đục trái bưởi xuất hiện và gây
hại rất phổ biến. Theo kết luận của ngành Bảo vệ thực vật ghi nhận, sâu đục
trái bưởi có tên khoa học “Citripestis sagittiferellaMoore”, đây là đối
tượng dịch hại quan trọng gây thiệt hại rất lớn trên cây có múi ở khu vực Đông
Nam Á từ năm 1993. Tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đối tượng ghi nhận xuất
hiện và gây hại từ tháng 10 năm 2011 ở một loạt tỉnh như: Hậu Giang, Sóc Trăng,
Bạc Liêu, Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ; các tỉnh khu vực
miền Đông Nam Bộ là vùng chịu áp lực cao.
Để có cơ sở hướng dẫn chỉ đạo sản xuất trước yêu
cầu của Cục Bảo vệ thực vật về sâu đục trái bưởi, Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ
thực vật triển khai “Mô hình” áp dụng một số biện pháp, trong đó chú trọng biện
pháp “Bao trái” để quản lý đối tượng sâu đục trái. Bằng một loạt các biện pháp
đã tác động như: Chăm sóc bón phân đầy đủ, cân đối; tăng cường sử dụng phân hữu
cơ, hữu cơ vi sinh phối trộn với chế phẩm Trichoderma; thường
xuyên tỉa cành, tạo tán làm thông thoáng vườn; vệ sinh vườn, thu gom tiêu hủy
tàn dư nhiễm sâu, bệnh; sử dụng túi bao trái để bao trái ở giai đoạn 30 -
45 ngày sau thụ phấn (trước khi bao trái tổ chức phun thuốc BVTV phòng ngừa
nấm bệnh và trứng sâu đã nhiễm trên trái).
Sau 6 tháng theo dõi đánh
giá hiệu quả của các biện pháp tác động ở mô hình (từ tháng 5/2014-12/2014),
kết quả ghi nhận so với đối chứng tỷ lệ sâu đục trái giảm 20%; giảm số lần phun
thuốc BVTV (giảm 35,7%); màu sắc trái đẹp hơn. Từ kết quả nêu trên, một lần nữa
khẳng định việc quản lý các đối tượng dịch hại trên cây trồng cần phải áp dụng
tổng hợp các biện pháp (IPM) và tùy đối tượng dịch hại quan trọng để quyết định
lựa chọn biện pháp áp dụng cho phù hợp. Trong điều kiện thực hiện mô hình, biện
pháp bao trái được xem là thích hợp và có hiệu quả cao đối với sâu đục trái.