Năm 2015,
nhóm nghiên cứu đứng đầu là TS. LÊ THỊ THU HIỀN, Viện Nghiên cứu Hệ gen, Viện
Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã nghiên cứu thành công đề tài “Nghiên
cứu tái sinh in vitro và tạo cây ca cao (Theobroma cacao L.) chuyển gen” nằm
trong chương trình trọng điểm phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học trong
lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn đến năm 2020 với mục tiêu là xây
dựng được quy trình tái sinh in vitro và tạo cây ca cao chuyển gen. Đặc biệt là
xây dựng được quy trình tái sinh in vitro ở 1 - 2 dòng ca cao đang được canh
tác ở Việt Nam và xây dựng được quy trình chuyển gen và tạo được cây ca cao
chuyển gen chỉ thị gus/gusplus và gen kháng nấm. Nghiên cứu đã được công bố
trên tạp chí Công nghệ Sinh học và Kỷ yếu Hội nghị sinh học toàn quốc.
Ca cao (Theobroma cacao L.) là một trong những cây kinh tế quan trọng, đem lại
lợi nhuận đáng kể cho một số quốc gia trên thế giới. Bột ca cao được sử dụng
rộng rãi trong công nghiệp sản xuất bánh kẹo, thực phẩm, mỹ phẩm và dược phẩm
tại nhiều nước. Cây ca cao phát triển mạnh ở các vùng có khí hậu nhiệt đới nóng
ẩm trong đó có Việt Nam. Hiện nay, cây ca cao đang được quan tâm để phát triển
rộng rãi ở nước ta vì cây có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau như triền
dốc, đất cát, phù sa, đất nghèo dinh dưỡng. Ngoài ra, ca cao còn là cây chịu
bóng mát tốt, nên có thể trồng xen canh với cây ăn trái, cây lâm nghiệp, phủ
xanh đất tốt, thích hợp với kinh tế hộ gia đình và đặc biệt, thị trường tiêu
thụ sản phẩm ca cao là rất lớn. Tuy nhiên, tương tự các loài cây trồng khác,
phát triển sản xuất ca cao gặp nhiều khó khăn do giống bị thoái hóa, sự cạnh
tranh của các loại cây trồng khác, kỹ thuật canh tác chưa hiệu quả, sâu và bệnh
hại. Riêng bệnh nấm đã gây sụt giảm khoảng 30% sản lượng ca cao hàng năm trên
toàn thế giới. Theo truyền thống, có rất nhiều loại thuốc trừ sâu hóa học đang
được sử dụng để phòng trừ bệnh hại với chi phí tốn kém, gây ô nhiễm môi trường
và gây ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe người sản xuất và tiêu dùng, cũng như
môi trường. Để cải thiện tình hình, giúp cho cây ca cao phát triển bền vững,
nhiều chương trình nghiên cứu nhằm nâng cao khả năng chống chịu sâu bệnh và các
tác nhân gây hại khác đã và đang được thực hiện với sự tham gia của nhiều tổ
chức nghiên cứu và thương mại tr ên thế giới. Bên cạnh công tác chọn tạo giống
theo phương pháp truyền thống, phương pháp chọn tạo giống ứng dụng công nghệ
sinh học như tạo cây chuyển gen là một trong hướng nghiên cứu triển vọng trong
việc tạo các giống ca cao có năng suất cao và chất lượng tốt, có khả năng kháng
sâu bệnh, chống chịu với các điều kiện bất lợi của môi trường.
Tại Việt Nam, nhiều dòng ca cao được cấp phép sử dụng rộng rãi được nhập nội và
tuyển chọn từ Malaysia trong Chương trình do Hiệp hội Ca cao Thế giới (The
World Cocoa Foundation) hỗ trợ. Chính phủ và nhiều tổ chức quốc tế rất quan tâm
phát triển cây ca cao nhằm đưa Việt Nam vào bản đồ ca cao thế giới, trở thành
quốc gia giàu tiềm năng về cung cấp ca cao.Hiện nay chưa có nghiên cứu về tái
sinh và chuyển gen vào cây ca cao ở Việt Nam. Bên cạnh những thuận lợi và thành
công đã đạt được trong lĩnh vực công nghệ sinh học, những khó khăn có thể gặp
phải trong quá trình nghiên cứu chọn tạo giống cây trồng, trong đó có cây ca
cao bằng công nghệ sinh học ở nước ta là không nhỏ.
Từ mục tiêu nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả như sau:
Đã khảo sát khả năng hình thành mô sẹo, phôi soma sơ cấp, phôi soma thứ cấp,
khả năng tạo chồi, ra rễ và tái sinh cây in vitro của 9 dòng ca cao thương mại
và có triển vọng thương mại ở Việt Nam từ nguồn vật liệu ban đầu là nhị lép,
cánh hoa cao cao. Trong đó mô sẹo, phôi soma sơ cấp của các dòng ca cap TD1,
TD3, TD7, TD8 và TD9 đã được tái sinh thành công từ nhị lép/ cánh hoa với tỷ lệ
tạo phôi soma sơ cấp dao động từ 2,6-44,0%. Trong đó dòng TD8 có tỷ lệ tạo phôi
soma từ nhị lép cao nhất đạt 44,0%. Phôi soma thứ cấp từ 5 dòng ca cao TD1,
TD3, TD5, TD7, TD8 đã được tái sinh thành công với tỷ lệ tạo phôi từ trục mầm
với lá mầm dao động từ 5,0-48,5%. Cây ca cao dòng TD1, TD3, TD5, TD7, TD8 và
TD9 đã được tái sinh hoàn chỉnh và trồng ngoài nhà lưới.
Gen mã hóa chitinase TcChil với các kích thước khác nhau (vùng mang mã có kèm
và không kèm vùng 5’ và 3’) đã được phân lập thành công từ hệ gen của cây ca
cao và đã được đăng ký trên Ngân hàng gen quốc tế với mã số KF268030 và được sử
dụng để tạo các vector biểu hiện thực vật.
Gen GUS/GUSPlus đã được chuyển vào dòng ca cao thương mại TD8 thông qua ca cao
mang gen chỉ thị GUSPlus. Hiệu quả chuyển gen ở giai đoạn kiểm tra bằng PCR dao
động từ 0-1,4%. Gen mã hóa chitinase TcChil-1/TcChil-U đã được chuyển vào dòng
ca cao thương mại TD8. Đã thu được 2 dòng ca cao TD8 chuyển gen mang gen mã hóa
chitinase TcChil ở thế hệ T0 TD8/pCB/TcChi1/2 và TD8/pCB/TcChi1/3. Hiệu quả
chuyển gen ở giai đoạn kiểm tra bằng lai Southern dao động từ 0-0,5%. Từ kết
quả này, nhóm đề tài đã hoàn thiện được quy trình chuyển gen chỉ thị và gen
đích vào phôi soma sơ cấp của dòng ca cao thương mại TD8.
Có thể thấy, việc phân lập thành công được gen kháng nấm và tạo được các vector
biểu hiện thực vật sẽ làm cơ sở cho các nghiên cứu chuyển gen thực vật để tạo
ra giống cây trồng có những tính trạng mới. Đồng thời đây là khâu đầu tiên mang
tính quyết định đột phá cho toàn bộ hướng nghiên cứu công nghệ gen thực vật.
Tái sinh in vitro được các dòng ca cao giá trị đang được canh tác ở Việt Nam.
Chuyển được gen mong muốn vào cây cao cao. Những kết quả tái sinh in vitro và
chuyển gen này thuộc công trình đầu tiên được công bố trên đối tượng cây cao
cao ở Việt Nam.
Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ sinh học trong nhân giống và chọn tạo giống
cây trồng là một xu thế tất yếu trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta,
đặc biệt trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, để có thể đảm bảo cho việc
phát triển một nên nông nghiệp bền vững, chúng ta phải làm chủ được các công
nghệ gen thực vật, đặc biệt là các công nghệ mới. Do đó, đề tài đã góp phần đưa
công nghệ gen vào đời sống, góp phần định hướng nghiên cứu tạo ta hàng hóa sản
phẩm có chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường, định hướng vào việc nhân
rộng các loại giống có chất lượng, hạn chế sử dụng thuốc bảo vệ thực vật, thông
qua đó góp phần vào việc bảo vệ môi trường và chăm sóc sức khỏe cộng động.
Có thể tìm đọc toàn văn Báo cáo kết quả nghiên cứu của Đề tài (Mã số 10930)
tại Cục Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc gia.
P.T.T (NASATI)