1. Đặt vấn đề
Vỗ béo bò trước khi
bán thịt rất quan trọng, làm tăng hiệu quả chăn nuôi do tăng khối lượng và chất
lượng thịt. Sử dụng nguồn thức ăn là phế phụ phẩm nông nghiệp để vỗ béo bò trên
cơ sở có bổ sung khẩu phần ăn(thức ăn tinh). Tuy nhiên cho đến nay tỷ trọng về số lượng bò vỗ
béo trước khi bán thịt so với tổng đàn bò trong toàn huyện vẫn còn chiếm một tỷ
lệ thấp.
Nguồn thịt bò cung cấp
cho nhu cầu của thị trường hiện nay chủ yếu là những bò loại thải có thể trạng
yếu. Vì thế những bò đem giết thịt có tỷ lệ
thịt xẻ thấp, chất lượng thịt kém.
Trước tình hình nhu cầu
về thịt ngày càng tăng của xã hội thì việc chăm sóc, vỗ béo đàn bò thịt, chủ
yếu là bò già không còn khả năng sinh sản; bê và bò đực không còn sức kéo là
điều cần thiết tạo nguồn thu nhập lớn đối với hộ chăn nuôi. Tận dụng nguồn thức
ăn sẵn có tại địa phương, việc sử dụng phế phụ phẩm để vỗ béo bò trước khi giết thịt trong thời gian 60-90 ngày để tăng sản lượng thịt và tăng thu nhập cho
người chăn nuôi là một yêu cầu được đặt ra. Đây là một nguồn thu nhập
lớn đối với các hộ chăn nuôi, Nếu phát huy tốt thì đây
sẽ là hướng làm ăn mới trong phát triển kinh tế cho các hộ dân, tạo công ăn
việc làm vì trong điều kiện không có đồng cỏ để chăn thả thì việc nuôi nhốt và
bổ sung thức ăn tinh là hợp lý và đem lại hiệu quả cao. Vì vậy Chúng tôi xin giới
thiệu kỹ thuật vỗ béo bò trước khi giết
thịt như sau:
II. Nội dung quy trình vỗ béo.
1. Loại bò đưa
vào vỗ béo và cách chọn.
Bò đưa vào nuôi vỗ béo là
các bò cái, bò đực, thuần hoặc lai, không sử dụng vào mục đích sinh sản, cày
kéo; Bò sữa loại thải; bò gầy do thiếu dinh dưỡng, Bò hướng thịt hết giai đoạn
nuôi lớn; Bê nuôi hướng thịt.
Để nuôi vỗ béo lấy thịt
đạt hiệu quả cao cần chọn những con không quá già, không mắc bệnh.
Bò bị bệnh thông thường
phải điều trị khỏi bệnh trước khi đưa vào vỗ béo.
Ngoài ra cần lưu ý đến các
yếu tố sau:
- Giống: Các giống bò lai
phát triển nhanh hơn các giống bò địa phương.
- Giới tính: Bò đực tăng trọng nhanh
hơn bò cái.
- Tuổi: Bò càng già hiệu quả sử
dụng thức ăn càng kém, khả năng tăng trọng chậm.
- Thể trạng: Bò có thể trạng gầy, khung xương to cho hiệu quả
cao hơn bò có thể trạng béo.
2. Tẩy ký sinh trùng:
Trước khi đưa vào vỗ béo
bò phải tẩy ký sinh trùng theo các phương pháp dưới đây
a/ Ngoại ký sinh trùng:
ve, rận, ruồi…
- Sử dụng các loại thuốc
có phổ hoạt lực rộng như neuguvon hoặc asunto.
Hòa thành dung dịch tắm hoặc xoa, liều sử
dụng phải thực hiện theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất.
Pha và sửa dụng thuốc: sử dụng Nevugvon với liều phổ biến 1,25g/lít nước. Bổ sung 50ml dầu ăn và 20 gram xà phòng
bột lắc đều trước khi sử dụng. Dung bình
phun đều lên toàn bộ cơ thể bò đặc
biệt vùng bẹn, vùng nách và vùng
yếm. Có thể đeo găng tay, dùng dẽ để
bôi thuốc, không để thuốc bám vào người, quần áo, không hút thuốc, ăn uống
trong khi pha và bôi thuốc.
Nếu không có loại thuốc
trên có thể sử dụng thuốc sau có tác dụng
tương tự.
- Pha Bayticol hoặc Amitaz thành dung dịch 0,2%, nhúng ướt một miếng
xốp hoặc đụn giẻ vào dung dịch và xoa lên cơ thể bò.
- Phun lên cơ thể bò dung
dịch Amitaz hoặc Hantox đã pha sẵn.
- Tiêm Ivermectin, liều
0,2 mg/kg khối
lượng cơ thể ( thuốc này còn có tác dụng tẩy giun tròn).
- Thuốc thông dụng (dễ tìm) Depterex
0,5% (5%).
b/ Diệt nội ký sinh trùng:
(Tẩy giun sán đường ruột,
giun phổi, sán lá gan).
Sử dụng các loại thuốc có
phổ hoạt rộng như: Levamisole 7,5 % (liều 01ml/
20kg khối lượng cơ thể),Tetramisole điều trị
nội ký sinh trùng đường ruột (tiêm bắp
hoặc tiêm dưới da).
Fasinex: 01 viên cho 75 kg khối
lượng cơ thể điều trị sán lá gan (thuốc
uống) hoặc Tolzan F liều 8mg/kg khối lượng cơ
thể (thuốc uống).
Sán lá gan thuốc thông dụng: Dovinic ( tiêm ) Đertil B
(uống)
3. Thức ăn:
Thức ăn dùng vỗ béo bò
bao gồm: thức ăn thô xanh, phụ phẩm, thức ăn tinh, thức ăn bổ sung khoáng và
vitamin... Căn cứ vào nguồn thức ăn sẵn có để lựa chọn các nguyên liệu chính
như sau:
* Thức ăn thô xanh: Các
loại cỏ, thức ăn ủ chua, phụ phẩm nông nghiệp,
phụ phẩm công nghiệp (bã bia, bã rượu, rỉ mật, bã đậu, bã dứa, vỏ hoa quả)
chiếm tỷ lệ 55-60% vật chất khô trong khẩu phần.
* Thức ăn tinh: Các loại
hạt ngũ cốc, họ Đậu, cám (cám gạo, cám mỳ...), các loại khô dầu, thức ăn hỗn
hợp... chiếm 40-45% vật chất khô trong khẩu phần. Lúc
đầu nên cho bò ăn nhiều thức ăn thô xanh,
tập cho bò ăn ít thức ăn tinh để bò làm
quen với khẩu phần năng lượng cao trong thời gian 5 – 10 ngày.
Trên cơ sở các loại
nguyên liệu thức ăn trên, bổ sung khoáng và vitamin phối hợp thành khẩu phần
hoàn chỉnh để vỗ béo bò theo công
thức (xem bảng)
- Khẩu phần vỗ béo (kg/con/ngày):
Khối lượng bò
|
Cỏ tươi
|
Cỏ khô
|
Rơm lúa
|
Thức ăn hỗn hợp
|
200
|
15
|
1
|
4
|
1,5
|
230
|
20
|
1
|
4
|
2,0
|
260
|
20
|
1
|
4
|
2,5
|
290
|
25
|
1
|
4
|
3,0
|
320
|
30
|
1
|
4
|
3,5
|
350
|
30
|
1
|
4
|
4,0
|
Khi cho bò ăn theo khẩu phần vỗ béo, chúng ta
phải tập dần để bò quen với thức ăn mới, sau đó tiến hành cho ăn thức
4. Chuồng trại và phương thức vỗ béo.
Vỗ béo bằng phương thức nuôi nhốt tại chuồng
có sân cho bò vận động, cung cấp thức ăn, nước uống và cho ăn tự do theo yêu
cầu. Chuồng nuôi đảm bảo thoáng mát, sạch sẽ, bò đi
lại tự do trong chuồng. Theo dõi số lượng thức ăn hàng ngày để bổ sung và điều
chỉnh lượng thức ăn kịp thời.
Chuồng trại: Mục tiêu là để thuận lợi cho công
tác nuôi dưỡng, quản lý đàn bò. Xây dựng chuồng nuôi bò thịt phụ thuộc
vào quy mô chăn nuôi hộ gia đình
hay trang trại, phương thức chăn nuôi là nuôi thả hay nuôi nhốt, .. Nhưng chú ý
phải được xây dựng ở những nơi cao ráo, sạch sẽ, thoáng mát về mùa hè, ấm áp về
mùa đông. Hướng chuồng xây theo hướng Nam hoặc Đông Nam, diện tích chuồng nuôi
bình quân 3-5 m2/ con.Tùy theo quy mô mà chuồng có thể xây dựng 1 dãy
hoặc 2 dãy. Nền chuồng phải làm chắc, không láng trơn, có độ dốc 2-3% về phía
rãnh thoát. Cần trang bị máng ăn, máng uống dọc theo hành lang, kích thước máng
ăn 60 cm x 120 cm, cao phía sau 80 cm, cao phía trước 50 cm, trong lòng máng
hình lòng mo. Kích thước máng uống dài x rộng x sâu là 60 cm x 60 cm x 40 cm.
Rãnh thoát nước thải thiết kế phía sau rộng 30 cm, sâu 30 cm, độ dốc 5-8%.
Ngoài ra cần bố trí thêm hố ủ phân hoặc hầm biogas,
hệ thống rèm che cách tầm bò với 1-1,5m, hệ thống
cây xanh chống nóng cho bò trong mùa hè, ...
5. Vệ sinh thú y.
Tiêu độc, khử trùng và vệ sinh chuồng trại.
Vệ sinh phòng bệnh: Thực hiện phương châm
“Phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Chuồng trại, máng ăn, máng uống, môi trường xung
quanh và cơ thể bò phải luôn được sạch sẽ. Định kỳ tẩy uế chuồng trại, khu vực
xung quanh chuồng nuôi, phát quang bờ bụi, khơi thông cống rãnh, thu gom xử lý
chất thải. Thức ăn nước uống phải đảm bảo sạch sẽ, an toàn vệ sinh. Thường
xuyên kiểm tra theo dõi đàn bò khi có dấu hiệu biểu hiện không bình thường cần
can thiệp ngay, định kỳ tẩy nội, ngoại ký sinh trùng cho bò, nhất là bò trước khi vỗ béo. Đồng thời tiêm vacxin phòng bệnh đầy đủ các loại bệnh bắt buộc
cho bò 2 lần / năm như: bệnh tụ huyết trùng trâu bò, lở mồm long móng, ...
Chuồng nuôi phải được làm vệ sinh hàng ngày và
phải được khử trùng định kỳ theo chế độ phòng bệnh của thú y.
Định kỳ dùng vôi bột, nước vôi ( tỷ lệ 10% ), dung
dịch Iodin 5%, dung dịch Crezyl 3% tẩy
uế chuồng trại.
6. Thời gian vỗ béo.
Thời gian vỗ béo 60 - 90 ngày (dự kiến tăng
trọng 800-1200g/con/ngày). hoặc 24-36 kg/con/tháng ( trung
bình 30kg/con/tháng) tùy theo loại bò, đảm bảo được yêu cầu chăn nuôi vỗ béo bò
là tiêu tốn thức ăn thấp nhất, tỷ lệ tăng trọng cao nhất và có hiệu quả kinh tế
cao nhất. Nếu dưới 2 tháng thì bò chưa phát huy hết khả năng
tăng trọng, còn nếu kéo dài trên 3 tháng thì nuôi sẽ bị lỗ do bò sử dụng nhiều
thức ăn tinh và lúc này bò khả năng tăng
trọng của bò giảm dần, hiệu quả kinh tế sẽ không cao.
7. Hiệu
quả kinh tế trong chăn nuôi bò vỗ béo.
Vỗ béo là biện pháp tích cực để phát huy cao
độ khả năng sinh trưởng bù của bò khi ở giai đoạn trước khôngnuôi thâm canh. Hiệu quả nuôi phụ thuộc vào các
yếu tố chính sau:
+ Giá trị bò mua
vào để vỗ béo: Lợi nhuận càng cao khi giá mua vào càng thấp,
trong điều kiện vỗ béo những bò đã trưởng thành thì giá mua vào phải thấp hơn
giá bán tại thị trường.
+ Giá bán ra sau khi vỗ
béo: Giá bán cao, lãi xuất cao.
+ Chi phí thức ăn: Tận
dụng các loại phụ phẩm, tăng cường chế biến thức ăn để nâng cao tỷ lệ sử dụng,
tỷ lệ tiêu hóa, giảm lãng phí để hạ thấp
giá thành.
+ Thời gian nuôi: Những
bò trưởng thành thường vỗ béo trong 2 tháng và bê vỗ béo trong 3 tháng.
+ Chi phí chuồng trại
thấp khi sử dụng các loại chuồng nuôi đơn
giản, hợp vệ sinh
- Hạch toán hiệu quả kinh tế:
+ Chi phí vỗ béo:
2.000.000đ/con.
+ Doanh thu:
90kg/con (tăng trọng 3 tháng vỗ béo) x
90.000đ/kg = 8.100.000đ.
+ Lãi: 8.100.000đ –
2.200.000đ = 5.900.000đ/con ( chưa tính giá trị tăng thêm cả con bò do
bò đẹp, chất lượng tốt giá bán