Bầu là cây hằng niên, thân leo quấn, tua cuốn phân nhánh, thân lá phát
triển mạnh và có tính sinh nhánh lớn do đó khi canh tác phải bấm ngọn,
làm dàn. Bộ rễ rất phát triển, ăn lan rộng, có khả năng ra nhiều rễ bất
định ở đốt. Hoa thụ phấn nhờ gió và côn trùng. Trái có hình dạng và kích
thước rất thay đổi, thường là hình trụ, dài 50 - 100 cm, khi già vỏ
trái hóa gổ, bầu ưa nhiệt độ cao từ 20-30 độ C và cường độ ánh sáng
mạnh, vì vậy là rau vụ hè.
Hiện nay, có nhiều giống bầu nhưng chủ yếu có 4 loại:
bầu thước, bầu sao, bầu trắng và bầu thúng. Tuy nhiên, ở phía Bắc,
người dân nên trồng bầu sao bởi loại này cho năng suất cao và thu nhập
ổn định.
Bầu trồng được quanh năm, mùa nắng cho trái nhiều hơn mùa mưa.
Bầu phát triển thuận lợi khi gieo trồng từ tháng 11 đến tháng 1 dương
lịch. Hạt bầu cần nhiệt độ cao và ẩm độ đầy đủ để nẩy mầm.
Kỹ thuật trồng cây
Người trồng nên ngâm hạt từ 10 - 12 giờ, sau đó gói ủ hạt trong tro hay cát nóng từ 4 - 5 ngày cho nẩy mầm.
Bà con gieo hạt nẩy mầm vào bầu đất chăm sóc cho đến khi cây có 2 lá
thật mới đem trồng. Ngoài ra, người dân cũng có thể gieo thẳng hạt ngoài
đồng, mỗi lỗ từ 3 - 4 hạt, đào hốc có kích thước 50 x 50 x 30 cm, hốc
cách nhau 1m, bón nhiều phân chuồng hay phân cỏ hoai mục và khoảng 100 g
phân hỗn hợp NPK cho mỗi hốc trước khi trồng.
Bầu cần nhiều nước, do đó người chăm sóc phải tưới thường xuyên 1 - 2 lần/ngày cho cây đủ ẩm.
Lượng nước tưới cần gia tăng khi bầu mang trái. Giai đoạn tăng trưởng
kéo dài kể từ khi trồng đến khi bầu lên giàn (60 ngày sau khi trồng),
người dân cần bón thúc thường xuyên mỗi tuần một lần để chuẩn bị cơ sở
vật chất cho cây ra hoa kết trái.
Giai đoạn ra hoa, đậu trái, cây cần được bón thúc nuôi trái 7-10 ngày một lần
với lượng phân gia tăng dần để trái to và nhiều trái. Trong suốt thời
gian canh tác (130 - 140 ngày) mỗi hốc nên được bón từ 1 - 1,5 kg phân
hỗn hợp NPK.
Khi bầu mọc dài được 1m, bà con
bắt đầu khoanh dây vòng gốc, lấy đất chặn lên ngay đốt, cách 1 - 2 đốt
lại chặn đất để tranh thủ cho bầu ra rễ bất định, tăng khả năng thu hút
dinh dưỡng nuôi trái sau này. Trồng được 2 tháng người dân mới
nên nương dây cho bầu leo giàn, cần để dây ở thế tự nhiên, không lật úp
hay xoắn dây. Nên làm giàn bằng để bầu đủ diện tích bò, bầu vừa lên giàn
là có thể trổ hoa đậu trái. Từ 75 - 90 ngày sau khi trồng, bầu bắt đầu
cho thu hoạch.
Bầu ra nhiều dây nhánh và mang trái ở dây nhánh. Các dây nhánh ở đoạn thân từ gốc lên đến giàn nên tỉa bỏ để gốc được thoáng.
Khi bầu lên giàn, người trồng không nên tỉa để dây nhánh cho trái. Khi
đã lấy được trái trên nhánh, người dân nên bấm ngọn để trái phát triển
lớn và bầu tiếp tục cho trái ở dây nhánh khác.
Sâu hại bầu gồm ruồi
đục lòn lá (Lyriomyza spp.), rầy mềm (Aphis sp.), bọ rầy dưa
(Aulacophora similis). Bà con cần nhanh chóng phun thuốc khi thấy các
côn trùng này xuất hiện.
Bệnh gây hại cho bầu thường gặp
như bệnh héo cây con do nấm Rhizoctonia solani, bệnh khảm do virus,
bệnh thán thư do nấm Colletotrichum lagenarium trong mùa mưa và bệnh
phấn trắng do nấm Sphaerotheca fuliginea trong mùa khô. Trong thực tế do
diện tích trồng ít, giá trị kinh tế của bầu không cao, nông dân có thể
không phun ngừa thuốc trị bệnh, chỉ nhổ bỏ cây bệnh hay ngắt bỏ lá bệnh
nếu có.
Thu hoạch và để giống
Trái bầu phát triển 10 - 12 ngày sau khi trổ hoa là bà con có thể thu hoạch để ăn. Người trồng nên cắt trái khi vỏ còn mềm, trái thon dài,
hạt bên trong vừa tượng là ngon. Người dân không nên để trái già, vỏ
hạt bên trong đã cứng, ăn kém ngon và cây mau tàn. Nếu chăm sóc tốt,
giàn bầu 100 gốc sẽ cho thu trái 2 - 3 ngày/lần; mỗi gốc trung bình cho
từ 10 - 15 trái.
Công dụng của quả bầu
Tỷ lệ chất dinh dưỡng ở bầu kém hơn các
cây khác trong họ nhưng thịt quả non ngọt, có tác dụng giải nhiệt, trừ
độc, có thể chữa bệnh đái tháo đường và mụn lở. Hoa và hạt bầu cũng được
sử dụng làm thuốc trong Đông y. Vỏ quả già rất cứng dùng làm chai, lọ
hay chế tạo đồ gia dụng.