Cây gối hạc còn nhiều tên gọi như kim lê, bí đại, gối hạc, đơn gối hạc, củ rối, cây mũn, gối hạc đen, củ rối ấn, cây gây bụt phỉ tử, may chia (thổ), tên khoa học Leea rubra Blunne, thuộc họ gối hạc Leeaceae. Tại nước ta thường thấy sinh trưởng ở những chỗ râm mát, trên các khe đồi, hoặc gần suối trong rừng, chịu được ánh nắng, dễ trồng và trồng được bằng cành. Cây gối hạc xuất hiện rộng khắp trong những cánh rừng từ Tây Bắc đến Tây Nguyên, cây mọc dọc đường đi trong rừng khu vực núi đá Hoà Bình, Hà Tây, Ninh Bình, Lạng Sơn, Quảng Ninh qua các tỉnh miền Trung đến tận Kiên Giang (đảo Phú Quốc), tiêu biểu nhất là vùng Thái Nguyên, Di Linh (Lâm Đồng), An Giang... Tại các nước như Ấn Độ, Trung Quốc, Malaixia, mọc hoang ở chỗ râm mát trên các đồi ven rừng, chân núi và cũng trồng bằng cách giâm cành. Đông y cho rằng rễ gối hạc có vị đắng ngọt, tính mát, có tác dụng tiêu sưng, thông huyết. Do có tác dụng này như vị xích thược nên người ta gọi là nam xích thược, do đó thường được sử dụng chữa sưng tấy, đơn bắp chuối hay phong thấp sưng đầu gối và chữa đau bụng, rong kinh. Hạt thường được dùng trị giun đũa, giun kim và sán xơ mít. Liều thông thường 15-20g rễ, dùng riêng tán bột hay sắc uống hoặc ngâm rượu uống. Phụ nữ khi sinh đẻ thường lấy rễ gối hạc sắc uống cho khoẻ người, ăn uống ngon miệng, đỡ đau mình mẩyNgoài cây gối hạc, người ta còn sử dùng cây Leea sambuciana, cây này cũng giống cây trên, nhưng lá kép sẻ lông chim hai lần, cụm hoa lớn, hoa trắng vàng, nhỏ bé, quả đen, lá khô đen ở mặt trên cùng một công dụng với gối hạc. Thông tin cây gối hạc chính là sâm Ngọc Linh là thông tin sai vì giữa chúng không cùng họ; Một là họ nhân sâm Panax vietnamensis, họ cam tùng (Araliaceae), một là họ gối hạc (Leeaceae). Song hai loại này có dược tính và công dụng khác nhau: Sâm Ngọc Linh giải độc và bảo vệ gan, kích thích nội tiết sinh dục, điều hòa tim mạch, chống xơ vữa động mạch, giảm đường huyết...; còn gối hạc: chữa sưng tấy, sưng đầu gối, phong thấp, giun đũa, giun kim, sán xơ mít...