Lực lượng lao động qua đào tạo chiếm tỷ lệ thấp, sức
ép cạnh tranh có thể khiến nhiều doanh nghiệp phá sản... là những rủi ro về
việc làm tại Việt Nam khi tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương.
Lao động và việc làm là
một trong những vấn đề nóng khi Việt Nam tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái
Bình Dương (TPP). Theo PGS.TS Nguyễn Tiến Dũng, Hiệu trưởng Đại học Kinh tế -
Luật (Đại học quốc gia TP HCM), đây là thách thức lớn với kinh tế Việt Nam
Khi TPP có hiệu lực, cơ
hội tiếp cận của hàng hóa có xuất xứ Việt Nam đứng trước cơhội tiếp cận các thị
trường Mỹ, Nhật Bản, Canada... với thuế nhập khẩu bằng 0%. Kết hợp với các cam
kết rõ ràng hơn về cải thiện môi trườngđầu tư và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,
TPP sẽ góp phần thu hút vốn đầu tưnước ngoài vào Việt Nam, nhất là từ các tập
đoàn lớn.
Nếu biết tận dụng thời cơ
này, Việt Nam sẽ hưởng lợi từ làn sóng đầu tư mới, tạo ra nhiều công ăn việc
làm, hình thành năng lực sản xuất mới để tận dụng các cơ hội xuất khẩu và tham
gia các chuỗi giá trị trong khu vực và toàn cầu.
TPP cũng tạo cơ hội cho
các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, mở rộng sản xuất, kinh doanh, tạo
thêm nhiều công ăn việc làm cho người lao động, trong đó tập trung vào các
ngành, lĩnh vực như: may mặc, giầy da, thủy hải sản, lắp ráp thiết bị điện tử
...
Trong xu thế hội nhập và
chiều hướng phát triển hiện nay, khi gia nhập TPP, với tầm nhìn lâu dài và tổng
thể, tiền lương và thu nhập của người lao động có xu hướngđược cải thiện tốt
hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những
thuận lợi trên cũng có không ít thách thức. Trong số các hiệp định thương mại
tự do, TPP có chứa đựng nhiều nội dung không trực tiếp, nhưng có liên quan đến
thương mại như quyền của người lao động, các tổ chức xã hội, tiêu chuẩn
laođộng, tự do thành lập và hoạt động của hiệp hội - công đoàn …
Đây là hiệp định đòi hỏi
các quốc gia khi tham gia phải có những điều chỉnh chính sách phù hợp, đặc biệt
là sửa đổi hệ thống pháp luật lao động - công đoàn trong nước. Những yêu cầu
này về cơ bản, có điểm hiện chưa hoàn toàn phù hợp với thực trạng ở Việt Nam.
Thứnhất
là vấn đề việc làm và thu nhập của người lao động. Bên cạnh những tác động
tích cực thì vấn đề tự do hóa thương mại của TPP cũng sẽlàm cho một bộ phận lao
động mất việc do các doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, dẫn đến phải
thu hẹp sản xuất thậm chí giải thể, phá sản. Vì vậy, trước mắt khi tham gia
TPP, lao động Việt Nam có thể phải chịu những bất lợi sau đây.
Đầu tiên là cùng với mở
cửa thị trường, hàng hóa của các nước đặc biệt là hàng tiêu dùng sẽ nhập khẩu
vào Việt Nam với số lượng ngày càng lớn và đa dạng. Hàng nhập khẩu với nhiều ưu
thế về chất lượng, giá cả và tâm lý thích dùng hàng ngoại của người Việt sẽ rất
dễ chiếm lĩnh thị trường. Tình trạng này khiến doanh nghiệp trong nước gặp
nhiều khó khăn, phải thực hiện tái cơ cấu, sắp xếp lại, thu hẹp sản xuất, phá
sản dẫn đến lao động trong các doanh nghiệp đó bị mất việc làm.
Cùng với quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, tham gia TPP sẽ góp phần thúc đẩy tốc độ di
chuyển lao động từ nông thôn tới thành phố và các khu công nghiệp. Sức ép về
việc làm ở các khu đô thị sẽ tăng lên. Vấn đề mất cân bằng giữa cung và cầu lao
động có nguy cơ trở nên trầm trọng hơn dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp có nguy cơ
tăng cao.
Ngoài ra, nguồn nhân lực
của Việt Nam trẻ và dồi dào nhưng trình độ chuyên môn
kỹ thuật thấp. Năm 2013, lực lượng lao động qua đào tạo chiếm gần 18%. Năm
2015, tỷ lệ này là 19,5%. Điều này có thể gây thất nghiệp cao khi các ngành
nghề phát triển mạnh nhờ TPP và đồi hỏi yêu cầu cao về chất lượng lao động. Bên
cạnh đó, lao động từ các nước láng giềng có thể là sự cạnh tranh gay gắt cho Việt
Nam khi mà Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) chính thức hình thành.
Thứhai,
về thực thi các tiêu chuẩn quốc tế về lao động. Khi tham gia TPP, ngoài việc phải áp dụng các tiêu chuẩn về
lao động của Tổchức Lao động quốc tế (ILO), các quốc gia thuộc TPP sẽ phải áp
dụng nhiều tiêu chuẩn cao hơn nữa. Trong đó, đáng lưu ý là “đảm bảo các điều
kiện lao động chấp nhận được” gồm tiền công tối thiểu, thời giờ làm việc, an
toàn vệ sinh laođộng, lao động trẻ em.
Vềcơ bản, pháp luật Việt
Nam hiện nay đã có những quy định cụ thể về tiền công tối thiểu, thời gian làm
việc và an toàn vệ sinh lao động, lao động trẻ em. Nhưng hiệu quả thực tế của
những chuẩn mực này vẫn còn nhiều điểm chưa đáp ứngđược yêu cầu theo TPP. Điều
đó đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không được hưởng mức thuế nhập khẩu 0% từ
các nước thành viên nếu không cải thiện các tiêu chuẩn này.
Thu nhập của người lao
động Việt Nam nhìn chung còn thấp; lương tối thiểu mới chỉ đáp ứng khoảng 70%
nhu cầu tối thiểu và khoảng 80% lao động Việt Nam không có tích lũy hoặc chỉ có
mức tích lũy dưới 2 triệu đồng một người mỗi tháng.
Tính chung 9 tháng năm
2015, cả nước có gần 228.000 lượt hộ thiếu đói, tương ứng với gần 939.000 lượt
nhân khẩu thiếu đói. Mức lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay theo nhiều đánh
giá vẫn chưa thể đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu và tích lũy tiết kiệm tối
thiểu.
Thời gian làm việc tại
một số doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề tăng ca quá mức tại các doanh nghiệp
dệt may và trong lĩnh vực nông nghiệp vẫn thường xuyên diễn ra. Trong khi dệt
may và nông nghiệp là những lĩnh vực dự báo sẽ được hưởng lợi rất lớn khi Việt
Nam tham gia vào TPP.
Trên thực tế, nhiều doanh
nghiệp nước khi gia công hay hợp tác sản xuất với nước ngoài đã đáp ứng tiêu
chuẩn lao động cao (như tiêu chuẩn sạch, xanh, trách nhiệm xã hội). Tuy nhiên,
việc đảm bảo an toàn, vệ sinh lao động tại đa số các doanh nghiệp Việt Nam hiện
vẫn chưa được đảm bảo. Các trang thiết bị, công cụbảo hộ an toàn cho người lao
động còn thiếu thốn, chế tài xử phạt của nhà nướcđối với các doanh nghiệp vi
phạm an toàn, vệ sinh lao động chưa có tính răn đe cao.
Đểcó được thành công từ
TPP, Việt Nam sẽ phải hết sức nỗ lực, biến thách thức thành cơ hội nhằm đổi mới
mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, giải quyết việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động. Theo đó, nước ta cần có những điều chỉnh cần thiết và
chủ động hơn trong việc đẩy mạnh chất lượng nguồn lao động để đáp ứng nhu cầu
của các doanh nghiệp mở rộng đầu tư sản xuất khi TPP có tác động thúc đẩy xuất
khẩu.
PGS.
TS Nguyễn Tiến Dũng