Trích Nghị định số 53/2011/NĐ-CP ngày 01/7/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế sử dụng đất phi Nông nghiệp.
Nghị định này có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2012 và thay thế Nghị định số 94/1994/CP ngày 25/8/1994 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh về thuế nhà, đất và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh về thuế nhà, đất.
Nghị định quy định cụ thể các đối tượng chịu thuế và các đối tượng không chịu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp; các căn cứ tính thuế, đăng ký, khai, tính, nộp thuế và miễn thuế, giảm thuế. Theo đó:
Đối tượng chịu sử dụng đất phi nông nghiệp bao gồm đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị; đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp; đất phi nông nghiệp được các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng vào mục đích kinh doanh.
Đối tượng không chịu thuế bao gồm: đất phi nông nghiệp sử dụng không vào mục đích kinh doanh thuộc đối tượng không chịu thuế, bao gồm: đất sử dụng vào mục đích công cộng như đất giao thông, thuỷ lợi; đất xây dựng công trình văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể thao phục vụ lợi ích công cộng; đất có di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng hoặc được UBND Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là UBND tỉnh) quyết định bảo vệ; đất xây dựng công trình công cộng khác; đất do cơ sở tôn giáo sử dụng; đất làm nghĩa trang, nghĩa địa…
Nghị định cũng quy định diện tích đất tính thuế là diện tích đất phi nông nghiệp thực tế sử dụng; trường hợp người nộp thuế có quyền sử dụng nhiều thửa đất ở trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì diện tích đất tính thuế là tổng diện tích các thửa đất ở tính thuế; đối vớ đất ở nhà nhiều tầng nhiều hộ ở, nhà chung cư, bao gồm cả trường hợp vừa để ở, vừa để kinh doanh thì diện tích đất tính thuế của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được xác định bằng hệ số phân bổ nhân với diện tích nhà (công trình) của từng tổ chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng.
Giá của 01m2 đất tính thuế là giá đất theo mục đích sử dụng của thửa đất tính thuế do UBND cấp tỉnh quy định và được ổn định theo chu kỳ 5 năm, kề từ ngày 01/01/2011. Trường hợp trong chu kỳ ổn định có sự thay đổi người nộp thuế hoặc phát sinh các yếu tố khác dẫn đến thay đổi giá của 01m2 đất tính thuế thì không phải xác định lại giá của 01m2 đất tính thuế cho thời gian còn lại của chu kỳ. Trường hợp được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trường hợp chuyển mục đích sử dụng đất từ đất nông nghiệp sang đất phi nông nghiệp hoặc từ đất sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp sang đất ở trong chu kỳ ổn định thì giá đất của 01m2 đất tình thuế là giá đất theo mục đích sử dụng do UBND cấp tỉnh quy định tại thời điểm được giao đất, cho thuê đất hoặc thời điểm chuyển mục đích sử dụng đất và được ổ định trong thời gian còn lại của chu kỳ.
Trích Nghị định số 57/2011/NĐ-CP ngày 07/7/2011 của Chính phủ về chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức, người hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm từ Ngân sách Nhà nước.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2011.
Theo đó, cán bộ, công chức được áp dụng phụ cấp công vụ bằng 10% mức lương hiện hưởng công phụ cấp chức vụ lãnh đạo và phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có) hoặc phụ cấp quân hàm. Chế độ phụ cấp công vụ được tính hưởng kể từ ngày 01/5/2011. Chế độ phụ cấp này được chi trả cùng kỳ lương tháng và không dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Thời gian không được tính hưởng phụ cấp công vụ bao gồm: thời gian đi công tác, làm việc học tập ở nước ngoài được hưởng 40% tiền lương; thời gian nghĩ việc không hưởng lương liên tục từ 01 tháng trở lên; thời gian nghĩ việc hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về BHXH; thời gian bị tạm đình chỉ công tác hoặc bị tạm giữ, tạm giam.
Cũng theo Nghị định này, khi thôi làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội và lực lượng vũ trang thì thôi hưởng phụ cấp ưu đãi theo nghề, phụ cấp trách nhiệm theo nghề hoặc phụ cấp đặc thù theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thì cũng được hưởng phụ cấp công vụ theo quy định tại Nghị định này.
Trích Ngị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, tổ chức hoạt động của cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính và chế độ áp dụng đối với người chưa thành niên, người tự nguyện vào cơ sở chữa bệnh.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể ừ ngày 08/9/2011. Theo đó:
Nghị định sửa đổi, bổ sung quy định cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Luật Phòng, chống ma tuý và cơ sở chữa bệnh theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (gọi chung là Trung tâm Chữa bệnh – Gáio dục – Lao động xã hội) là đơn vị sự nghiệp công lập; tổ chức và hoạt động theo các quy định của pháp luật hiện hành về đơn vị sự nghiệp công lập.
Nghị định quy định người nghiện ma tuý từ đủ 18 tuổi trở lên có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh từ 01 năm đến 02 năm khi thuộc các trường hợp sau: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về việc sử dụng trái phép chất ma tuý; đã được giái dục tại xã, phường, thị trấn hoặc chưa bị áp dụng biện pháp này nhưng có có nơi cư trú nhất định; đã được cai nghiện ma tuý tại gia đình hoặc cai nghiện tại cộng đồng.
Trường hợp người nước ngoài, người nghiện ma tuý chưa đủ 18 tuổi, người trên 55 tuổi đối với nữ, trên 60 tuổi đối với nam, người bán dâm chưa đủ 16 tuổi sẽ không áp dụng biện pháp đưa vào sơ sở chữa bệnh.
Người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh được hoãn thi hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh khi thuộc các trường hợp sau: Đang ốm nặng có chứng nhận của bệnh viện từ cấp huyện trở lên; Phụ nữ đang có thai có giấy chứng nhận của bệnh viện từ cấp huyện trở lên hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi có đơn đề nghị được UBND cấp xã nơi người đó cư trú xác nhận. Trường hợp người bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh được miễn chấp hành quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh khi đang mắc bệnh hiểm nghèo có chứng nhận của cơ sở y tế từ cấp huyện trở xuống, bị bệnh AIDS giai đoạn cuối, có tiến bộ rõ rệt trong việc chấp hành pháp luật hoặc lập công và không còn sử dụng ma tuý trong thời gian hoãn chấp hành quyết định.