I. ĐẶC ĐIỂM CHUNG
-
Trùn quế có tên khoa học là Perionyx excavatus, chi Pheretima, họ
Megascocidae (họ cự dẫn), ngành ruột khoang.
- Chúng thuộc nhóm trùn ăn
phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy, trong tự
nhiên ít tồn tại với quần thể lớn và không có khả
năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài trùn địa phương sống trong đất.
- Cơ thể trùn quế nước
chiếm khoảng 80 – 85%, chất khô khoảng 15 – 20%. Hàm lượng các chất (tính trên
trọng lượng chất khô) như sau: Protein: 68 –70%, Lipid: 7 – 8%, chất đường: 12
–14 %, tro 11 – 12%.
- Do có hàm lượng Protein
cao nên trùn quế được xem là nguồn dinh dưỡng bổ sung quý giá cho các loại gia
súc, gia cầm, thủy hải sản… Ngoài ra, trùn quế còn dùng trong công nghệ chế
biến thức ăn gia súc…
- Sản phẩm phân trùn quế là loại phân hữu cơ sinh học có hàm lượng dinh dưỡng
cao, thích hợp cho nhiều loại cây trồng, không gây ra tình trạng “sốc” phân,
yêu cầu trữ dễ dàng, đặc biệt thích hợp cho các loại hoa kiểng, vườn ươm và là
nguồn phân thích hợp cho việc sản xuất rau sạch.
1.1. Đặc điểm sinh học
- Trùn quế có kích thước
tương đối nhỏ, độ dài vào khoảng 10 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng
thành có thể đạt 0,1 – 0,2 cm, có màu từ đỏ đến màu mận chín (tùy theo tuổi),
màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài nối
với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ. Khi di chuyển, các đốt co
duỗi kết hợp các lông tơ phía bên dưới các đốt bám vào cơ chất đẩy cơ thể di
chuyển một cách dễ dàng
- Trùn quế hô hấp qua da, chúng có khả năng hấp
thu O2 và thải CO2 trong môi trường nước.
- Hệ thống bài tiết bao
gồm một cặp thận ở mỗi đốt, các cơ quan này bảo đảm cho việc bài tiết các chất
thải chứa đạm dưới dạng Amoniac và Ure.
1.2. Đặc điểm sinh lý
- Nhiệt độ thích hợp nhất
cho trùn phát triển là từ 20oC - 28oC.
-
Độ ẩm luống nuôi thích hợp cho trùn quế phát triển từ 70 - 80%
- Ánh nắng: Trùn
rất sợ ánh nắng nên cần phải che chắn để tránh ánh nắng trực tiếp rọi vào
chuồng làm cho trùn sợ và chui xuống phía dưới để sống. Tuy nhiên, khi che chắn
vẫn phải đảm bảo được sự thông thoáng của chuồng trại và nhiệt độ trong chuồng
nuôi.
- Độ pH: chúng có thể
sống ở phổ pH khá rộng từ 4 – 9, tuy nhiên trùn quế sống và sinh sản tốt nhất ở
pH 7 – 7,5.
- Không khí: Thức ăn của trùn là phân nên hàm lượng khí độc hại (CO2,
H2S, SO3, NH4) luôn tồn tại trong luống nuôi
và chuồng nuôi. Do đó phải tạo sự thông thoáng cho chuồng nuôi, tránh để tồn
lưu khí độc hại ảnh hưởng tới sự phát triển của trùn.
1.3. Đặc điểm sinh sản
-
Trùn quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu
của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau để hình thành kén ở mỗi con, kén
được hình thành ở đai sinh dục, trong mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng, kén trùn di
chuyển dần về phía đầu. Kén áo hình dạng thon dài, hai đầu túm nhọn lại gần
giống như hạt bông cỏ, ban đầu có màu trắng đục, sau chuyển sang xanh nhạt rồi
vàng nhạt. Mỗi kén có thể nở từ 1 – 10 con.
-
Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3mm, sau 5 – 7
ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ
thẫm trên lưng. Khoảng từ 15 –30 ngày sau, chúng trưởng thành và bắt đầu xuất
hiện đai sinh dục; từ lúc này chúng bắt đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản.
Con trưởng thành khỏe mạnh có màu mận chín và có sắc ánh kim trên cơ thể.
-
Thời gian sinh sản của trùn liên tục quanh năm và cứ diễn ra trung bình một
tuần một lần, nếu không có yếu tố bất lợi thì sự phát triển của trùn quế luôn
tăng theo cấp số nhân.
II. QUY TRÌNH CHĂM SÓC NUÔI DƯỠNG
2.1 Xây dựng chuồng trại
- Nhà nuôi trùn được lợp bằng mái lá.
-
Các lối đi được tráng nền kiên cố để dễ quét dọn và vận chuyển
-
Trong nhà nuôi trùn được chia ra các dãy luống nuôi, chiều cao trung bình 0,4
m, chiều ngang từ 1,5 – 2 m để dễ quản lý, chăm sóc và khai thác.
- Nền chuồng được
tráng hồ non cho dễ thấm nước, mặt nền có độ dốc, có lỗ thoát nước để tránh
ngập úng. Trường hợp tận dụng chuồng trại sẵn có mà nền chuồng không thấm nước hay
không có lỗ thoát nước thì đổ nền cát cao từ 10 – 15 cm, trải lưới cước
(lỗ ≤ 1 mm2) giúp thoát nước dễ dàng.
- Chuồng trại phải đảm
bảo được sự thông thoáng, hạn chế tồn lưu khí độc hại trong chuồng, tránh mưa
tạt gió lùa. Chuồng làm xa trục lộ giao thông, tránh tiếng ồn.
- Che chắn bằng lưới
đen xung quanh chuồng nuôi tạo bóng tối trong chuồng nuôi (không quá tối) để
trùn lên ăn cả ngày lẫn đêm, tránh ánh sáng chiếu trực tiếp vào luống nuôi.
2.2. Thả giống
a. Cách chọn giống:
Giống trùn chọn thả
phải đảm bảo về hình dáng và kích thước đặc trưng của giống, đa số trùn có màu
đỏ đậm, chui xuống luống nuôi hoặc vận động không quá chậm khi bị bắt. Chọn
sinh khối có nhiều kén và trùn con.
b. Cách thả
giống: Thả sinh khối (là
ổ trùn bao gồm trùn bố mẹ, trùn con, kén và môi trường sống)
- Lấy sinh khối thả
vào luống trùn với mật độ thả: 20 – 25 kg/m2.
- Sau 2 giờ thì tưới
nước và sau 1 ngày có thể cho trùn ăn phân.
2.3. Cho ăn
Thức ăn sử dụng trong
nuôi trùn quế là phân bò tươi, không có hóa chất độc hại, thuốc sát trùng, vật
lạ ...
a. Cách thức cho ăn:
- Trước khi cho ăn
phải kiểm tra luống nuôi xem thức ăn còn dư hay không, qua đó đánh giá tạm thời
sức ăn của trùn để cho ăn nhiều hay ít.
- Dùng tay (có bao
tay) hay xẻng nhỏ lấy từng mảng phân bỏ vào luống nuôi, mảng phân đường kính 10
cm cao 2 cm, các mảng phân cách nhau 10cm.
- Sau đó tưới nước đều trên luống trùn để giữ độ ẩm cho luống nuôi và
mảng phân bò. Nếu mảng phân khô thì tốc độ ăn của trùn sẽ giảm, do đó phải đảm
bảo mảng phân luôn ẩm ướt.
b. Cách phát hiện thức
ăn dư: Kiểm tra luống
trùn nhận thấy bề mặt phân luống trùn có màu đen nhạt (trùn ăn mạnh thì sau 3 –
4 ngày bề mặt luống trùn phủ màu trắng vàng nhạt). Khi kéo mảng phân trên bề
mặt luống lên nhận thấy có rất ít trùn tập trung dưới mảng phân, mảng phân
không tơi xốp hay độ tơi xốp thấp, nếu độ ẩm không đủ thì mảng phân có thể cầm
lên dễ dàng (mảng phân được ăn hết thì rất xốp, không còn hình dáng ban đầu của
mảng phân).
c. Nguyên nhân dư
phân:
- Do bỏ phân cho trùn
ăn quá nhiều mà lượng trùn trong luống lại ít, trùn ăn không hết làm thức ăn dư
thừa.
- Do luống nuôi và
mảng phân không đủ độ ẩm cần thiết làm ảnh hưởng tới khả năng ăn của trùn.
- Do phân hoặc nước
tưới lẫn tạp chất, hoá chất độc hại trùn không ăn.
- Do tác động từ các
yếu tố khác như: nhiệt độ môi trường nuôi, ánh sáng, tiếng ồn ...
d. Biện pháp can
thiệp:
- Do thức ăn dư: hốt
bớt phần phân cho ăn trong luống ra sau đó tưới nước lại, để trùn ăn hết phần
phân dư. Dùng bàn cào xới phần sinh khối trong luống trùn giúp tạo sự thông
thoáng thoát khí độc hại, sau đó cho ăn lượng phân ít hơn 2/3 hoặc một nửa so
với bình thường.
- Do độ ẩm không phù
hợp: kiểm tra nếu thấy trùn ăn yếu do nguyên nhân độ ẩm thì cần điều chỉnh lại
chế độ tưới cho phù hợp.
- Do thức ăn lẫn hoá chất
độc hại: lấy hết phân đã cho ăn trong luống ra, dùng bàn cào xới phần sinh khối
trong luống trùn giúp tạo sự thông thoáng thoát khí độc hại, tưới nước, sau đó
cho ăn lượng phân ít hơn 2/3 hoặc một nửa so với bình thường.
2.4. Tưới nước
Khâu tưới nước giữ độ
ẩm cho trùn quế rất quan trọng, độ ẩm yêu cầu thích hợp cho trùn quế phát triển
từ 70 - 80%.
Nếu khô quá trùn sẽ ít
ăn phân và phát triển chậm, nếu luống trùn dư nước thì trùn sống tập trung trên
bề mặt nhiều, lượng trứng nở ra thấp do bị úng gây thối ảnh hưởng tới sự nhân
giống của trùn.
a. Cách tưới nước:
- Kiểm tra luống nuôi
xem độ ẩm để điều chỉnh lượng nước tưới cho phù hợp
- Dùng nước cây hoặc
nước mưa tưới đều khắp luống nuôi với một lượng nước vừa phải, khối lượng nước
trung bình tưới 1 m3/300 m2/lần tưới.
- Hằng ngày kiểm tra
và phải đảm bảo độ ẩm luôn phù hợp cho trùn phát triển.
b. Cách nhận biết độ
ẩm thích hợp: Lấy tay nắm chặt phần sinh khối trong
luống nuôi sau đó thả ra, nếu thấy phần sinh khối còn giữ nguyên và tay ta chỉ
ướt là đủ, nhưng nếu thấy nước chảy ra hoặc phần sinh khối bị vỡ và rơi xuống
như vậy là quá ướt hoặc quá khô
III. KHAI THÁC - CHẾ BIẾN
Đối với luống trùn mới
nhân giống (nuôi mới) thì khai thác lần đầu vào 2 tháng sau khi thả giống.
Luống trùn nuôi cũ thì khai thác 1 lần/tháng.
3.1. Cách khai thác:
Khi kiểm tra luống
nuôi nếu đã đủ thời gian nuôi và trùn trong luống phát triển bình thường thì
tiến hành khai thác.
- Cho trùn ăn trước 3
ngày mới khai thác, như vậy sẽ không còn lượng phân dư trong luống nuôi.
-
Ngưng tưới nước 1 ngày trước khi bắt trùn
a. Khai thác trùn thịt: có 2 cách
- Cách 1: thu hoạch
bằng phương pháp nhử mồi sau khi cho trùn ăn được 3 ngày, dùng tay hốt trên bề
mặt luống, nơi đã bỏ phân bò (vì chúng sẽ tập trung vào đây để ăn).
- Cách 2: lấy toàn bộ
phần sinh khối
Trải tấm nilon ngoài
sân trống có ánh nắng càng tốt. Đổ phần hỗn hợp này lên tấm nilon, sau đó gạt
bỏ phần sinh khối bên trên lần lượt vì khi trùn ra ngoài sợ ánh nắng nên trốn
xuống phía dưới cho đến khi chỉ còn trùn. Chú ý rằng lớp sinh khối bên trên này
cho trở lại luống để tiếp tục.
b.
Khai thác sinh khối
Dùng tay lấy sinh khối
phía trên luống trùn chiếm khoảng 2/3 chiều dày luống trùn tùy theo thời gian
nuôi (sinh khối xốp, màu đậm hơn, có nhiều trùn và kén).
c. Khai thác phân trùn
- Tách phần sinh khối
bỏ qua 1 bên, sau đó cào toàn bộ phân trùn khoảng 1/3 phía dưới tùy theo thời
gian nuôi (phân trùn chai hơn và màu nhạt hơn, không có hoặc có rất ít trùn và
kén).
-
Dùng bàn cào sang đều phần sinh khối qua bên mới khai thác và tiếp tục nuôi
3.2. Cách chế biến
trùn thịt:
- Trùn thịt sau khi khai thác sử dụng ngay làm
thức ăn cho cá, gà….
- Phơi khô: trùn thịt sau khi khai thác đem
rửa sạch phân trùn, đem ra nắng phơi khô trên tấm nilon, đóng gói bọc trọng
lượng 0,2 kg và 0,5 kg/bọc.
- Đông lạnh: Trùn thịt sau khai thác đem rửa
sạch phân trùn, đem bỏ vào bọc nilon với trọng lượng 0,5 và 1 kg/bọc, buộc kín
cho vào đông đá.
IV. BIỆN PHÁP PHÒNG VÀ TRỊ MỘT SỐ BỆNH
4.1. Bệnh trúng khí độc:
Do đáy chất nền đã bị
thối rữa, trong thời gian dài chất nền thiếu O2 làm cho khí CO2chiếm
lĩnh hết khe hỡ của chất nền, làm trùn chui lên sống trên lớp mặt.
Cách khắc phục: Dùng
cuốc chĩa xới toàn bộ mặt luống và tưới nước.
4.2. Bệnh no hơi:
Do trùn ăn nhằm những
loại thức ăn quá giàu "chất đạm" như phân bò sữa, heo... làm cho phân
có mùi chua. Sau khi cho ăn, trùn có hiện tượng nổi lên trên mặt luống và trườn
dài sau đó chuyển sang màu tím bầm và chết.
Khi
phát hiện trường hợp này nên hốt hết phần phân lỡ cho ăn ra và tưới nước lên
luống.
4.3. Địch hại:
Kiến, chim, cóc,
nhái... là những địch hại nguy hiểm của trùn quế.
- Đối với kiến hãy
diệt tận gốc, dùng vật nhọn moi tận gốc của ổ kiến, xịt thuốc và vệ sinh thật
sạch khu vực xung quanh chuồng trại.
- Đối với cóc, nhái:
có thể câu chúng vào buổi chiều hoặc chỉa vào buổi tối.
- Đối với chim thì
chuồng trại được che chắn kín chống chim vào ăn trùn
4.4. Tác nhân hoá học:
Các loại thuốc trừ
sâu, thuốc sát trùng, xà bông, nước rửa chén … các tác nhân này sẽ làm chết
trùn.
Không sử dụng phân
hoặc nước có lẫn thuốc sát trùng, phân cho trùn ăn phải lấy và để riêng một khu
trước khi phun xịt thuốc sát trùng chuồng trại