3.1. Nhân giống
Sầu riêng có thể được nhân
giống bằng hột, tháp mắt, tháp cành, tháp đọt và chiết. Cây trồng bằng trái và
năng suất không được ổn định, cây rất lâu cho trái (mất từ 7-12 năm) và có
chiều hướng phát triển khung tán rất to gây trở ngại cho việc chăm sóc. Do đó phương pháp
nhân giống vô tính thường được áp dụng rộng rãi hơn. Hiện nay ở ĐBSCL sầu riêng
thường được trồng bằng cây tháp và chiết.
3.1.1. Phương pháp tháp mắt
Chuẩn bị gốc tháp
Hột thường được chọn từ những
trái chín đầy đủ. Sau khi chà sạch cơm, loại bỏ những hột xấu lép rửa sạch, xử
lý thuốc sát khuẩn trước khi đem ươm. Hột mất sức nẩy mầm nhanh nên cần gieo
ngay. Đem trải đều hột kề nhau trên đất ẩm, phía trên phủ tro trấu, tưới
nước giữ ẩm hàng ngày. Sau khi hột nẩy mầm (8-17 ngày) đem cấy vào liếp.
Đất liếp cấy hột sầu riêng phải
cuốc sâu 30 cm để rễ cái phát triển tốt. Cấy hột với khoảng cách 30 x 30 cm.
Đặt phần tễ hột úp xuống dưới, 1/2 phần đáy hột hướng lên trên. Khi cấy hột
xong tủ cỏ lại và tưới nước giữ ẩm hàng ngày. Rải thuốc trị kiến, xịt thuốc
phòng trừ sâu bệnh thường xuyên và dùng phân N-P-K tưới để cây con phát triển
tốt. Có thể dùng Derosal, Carbendazim, Bavistime, Appencab để phòng trị chết
cây con. Cây con phát triển có 1-3 thân, chỉ cần giữ lại 1 thân chính khỏe
mạnh. Nên che mát ánh sáng 50% để cây ít bị cháy lá và chậm tăng trưởng (do
quang phân hóa).
Có thể ươm hột trong bầu đất.
Đặt hột ở 1/3 chiều cao bầu, thêm đất trộn tro trấu vào đầy dần bầu theo sự
phát triển của rễ hột.
Cây con sử dụng làm gốc tháp
phải có tuổi thích hợp tùy theo phương pháp tháp. Gốc khoảng 3-5 tháng tuổi
được dùng làm gốc tháp cành, tháp đọt; gốc 1,5-3 năm tuổi dùng tháp mắt. Lưu ý
khi dùng gốc tháp non (tháp cành, tháp đọt) phải chăn sóc thật kỹ khi đem trồng
vì cây dễ bị chết do rễ phát triển kém.
Mùa vụ tháp
Đối với sầu riêng, tiến hành
tháp vào khoảng tháng 6-9 dl hàng năm là tốt nhất vì trong những tháng này có
nhiệt độ và ẩm độ thích hợp nên tháp cây rất dễ dính. Sầu riêng cũng được tháp
trong mùa nắng, có thể cắt ngọn gốc tháp trước, bứng vô bầu đem đặt vào chỗ
thoáng mát để tiến hành tháp. Tỷ lệ tháp dính so với tháp trong mùa mưa kém
hơn.
Cách làm
Có nhiều kiểu tháp, nhưng kiểu
tháp theo chữ U xuôi là phổ biến nhất. Mở miệng tháp trên gốc tháp cách mặt đất
khoảng 25-30 cm, nhánh mũi dao làm trầy phần gỗ bên trong. Miệng tháp dài
khoảng 2-2,5 cm, rộng khoảng 1-1,5 cm. Dùng dao rọc một đường chia lớp vỏ đậy
miệng tháp làm 2 phần lớn của vỏ đậy một lỗ nhỏ tròn để khi đặt mắt tháp vào
không bị cấn dập.
Mắt tháp (còn gọi là bo tháp)
được lấy từ những mầm vừa nhú lên từ nách lá (nông dân thường gọi là hột gạo)
trên cành. Cắt cuống lá trước 3-4 ngày trước khi lấy bo tháp. Bo tháp được lấy
theo kích thước hơi nhỏ hơn miệng tháp. Luồn bo tháp vào miệng tháp đậy vỏ
miệng tháp lại sao cho mầm tháp nhú ra ngoài từ nơi khoét lỗ. Dùng một đoạn lá
dừa dài khoảng 5 cm, rộng 2 cm có khoét lỗ ở giữa đậy lên kín miệng tháp,
dùng dây thun buộc lại. Đầu trên lá dừa phải buộc chặt để nước không thấm vào
trong, phía ngoài chỗ tháp được quấn dây thu vừa phải làm cấn giập mầm tháp.
Nếu phải lấy mắt tháp ở nơi xa, sau khi cắt cành nhúng nước giữ ẩm ở gốc cành
rồi dùng lá chuối bó lại. Không được nhúng ướt cả cành vì dễ làm hư mắt tháp.
Mắt tháp sầu riêng có thể giữ được tốt trong vòng 1 ngày.
Sau khi tháp 20 ngày thì mở dật
thun, nếu tháp dính thì ngày thứ 25 có thể cắt đọt gốc tháp cho mầm phát triển.
Khoảng 4-6 tháng sau khi cắt đọt , nếu cây con phát triển tốt thì có thể đem
trồng.
3.1.2. Phương pháp tháp cành
Có hai phương pháp tháp cành là
tháp nêm (ghép nêm) và tháp ngọn (ghép đọt)
* Tháp nêm:
Chuẩn bị gốc tháp
Sử dụng gốc tháp khoảng 3-5
tháng tuổi, phần thân thật (phía trên trục hạ diệp) có đường kính 3-4 m.
Chọn cành tháp
Chọn cành tháp còn non, lá màu
xanh vàng nhạt, đường kính thân cành khoảng 3-4 mm, dài 20-30 cm. Có thể chọn
cành non mọc trên các cành chính hay trên thân chính.
Chuẩn bị giàn tháp
Khi tháp các cành non mọc từ
cành chính trên cao thì cần làm giàn treo bầu gốc tháp. Cắm 2 cọc tràm hay tre
ở gốc cành chính (sát gốc thân) và phía ngoài ngọn cành, sau đó buộc thắt dài 1
sào tre (hay tràm) nối 2 đầu cọc, song song sát với cành chính buộc các bầu gốc
tháp vào tương ứng với các cành tháp.
Cách làm
Dùng dao cắt ngang thân gốc
tháp ở vị trí cách trên trục hạ diệp (phần thân to mềm, mọc ra đầu tiên từ hột)
2-3 cm. Chỗ cắt cách mặt đất 10-15 cm tùy theo trục hạ diệp dài hay ngắn. Dùng
lưỡi lam vuốt mỏng dần 2 bên ngọn gốc tháp còn lại thành hình lưỡi gà mỏng, dài
khoảng 2cm.
Dùng dây nylon buộc treo gốc
tháp vào giàn ở vị trí thích hợp với cành tháp.
Dùng lưỡi lam cắt sâu vào giữa
lõi cành tháp theo chiều xiên về phía ngọn cành, dài khoảng 2-2,5 cm để tạo
miệng tháp. Luồn phần lưỡi gà của gốc tháp vào miệng tháp. Dùng vải nylon (rộng
1 cm, dài 50 cm) buộc miệng tháp lại từ dưới lên trên theo hình mái ngói để
tránh đọng nước.
Tưới giữ ẩm thường xuyên bầu
gốc tháp khoảng một tháng sau khi tháp có thể cắt đem bầu cây tháp xuống.
Phương pháp này có nhược điểm
là dễ gãy nơi vết tháp nếu trồng trong vùng có gió mạnh (Duyên Hải, Sông Bé,…)
dễ chết nếu trồng trong mùa mưa do vết tháp dễ nhiễm vi khuẩn.
* Tháp ngọn:
Tháp ngọn sử dụng gốc tháp 2-4
tháng tuổi và phải chuẩn bị cành tháp 10-20 ngày trước khi tháp (khấc,
bón P, K). Đọt tháp chỉ cần một đoạn có mang lá non (phương pháp Thái Lan).
Dùng dao bén hay lưỡi lam cắt ngang gốc tháp ở độ cao thích hợp sau đó chẻ ở
vết cắt sâu 1,5 cm. Dùng dao bén vuốt đọt tháp thành dạng mũi nêm và đặt vào
vết chẻ trên gốc tháp. Chú ý sao cho tượng tầng gốc tháp và ngọn tháp tiếp xúc
với nhau. Sau đó dùng dây cao su quấn chặt chỗ tháp theo kiểu mái ngói. Phương
pháp này có ưu điểm là không bị gẫy nơi vết tháp khi trồng sau này.
3.1.3. Phương pháp chiết cành
Mùa chiết
Từ tháng 3-10 dl (tốt nhất là
tháng 3-4 dl).
Chọn cành chiết
Chọn cành mọc xiên ngoài tán
khỏe mạnh, dài khoảng 1 mét, đường kính 5-10 mm, lá màu xanh vàng nhạt (mới
chuyển từ non qua trưởng thành), lá đọt chưa nở. Nếu chọn cành có lá màu xanh
đậm thì chiết khó ra rễ. Các nhánh chèo (nhánh thứ cấp) trên cành chiết cũng có
lá non chưa nở ra.
Cách làm
Khoanh một đoạn vỏ dài 4-8 cm
(tùy theo đường kính cành chiết). Chiều dài từ chỗ khoanh vỏ đến ngọn cành dài
50-70 cm. Khoanh theo kiểu tướt vỏ. Sau khi lột vỏ, dùng vải sạch lau tượng
tầng libe (rất mỏng). Tránh cọ xát mạnh làm tổn thương lỏi cây dễ gây thối
cành.
Sau khi khoanh vỏ để ráo nhựa
khoảng 2-3 ngày. Tiến hành bó bầu bằng rơm trộn bùn sông (nên dùng rơm đã giặt
sạch phơi khô và bùn không có phèn). Có thể sử dụng thuốc kích thích ra rễ của
Đại học Cần Thơ (1.000 ppm NAA) lên phía trên vết khoanh trước khi bó bầu. Vài
ngày sau, khi thấy rơm bó ngoài bầu chiết khô thì tiến hành bó nylon và che lá
chuối khô phía trên bầu chiết (hướng nắng phía Tây để hạn chế ánh sáng) giúp rễ
mọc ra. Tùy giống và mùa vụ, khoảng từ 35-40 ngày (nếu có sử dụng thuốc kích
thích ra rễ) đến 45-60 sau thì bầu chiết ra rễ. Tiến hành cắt cành giâm vào bầu
đất, che mát, được 1 tuần thì đưa dần ra nắng. Khoảng 1-2 tháng sau thì đem
trồng.
Nếu chiết vào giai đoạn mưa
nhiều (từ tháng 8 dl trở đi) nên dùng rễ lục bình bóc bầu để tránh quá ẩm gây
thối. Các điểm cần lưu ý khi chiết cành.
- Chọn cành đúng tuổi (quan
trọng)
- Bầu chiết bị thối do quá
ẩm hay ngộ độc (do rơm tươi, rễ lục bình không được giặt sạch,…).
- Kiến làm tổ do che lá chuối
khô gây hư hại cành chiết.
- Khả năng ra rễ còn tùy thuộc
vào giống.
3.2. Chuẩn bị đất trồng
Có thể trồng liếp đơn hay liếp
đôi. Nếu bố trí liếp đơn trồng 1 hàng, thì liếp rộng 5-6 m, mương rộng 2-3 m.
Nếu liếp đôi trồng 2 hàng. Thì liếp rộng 10-12 m, mương rộng 4-5 m. Lưu ý xẻ
thêm mương phèn trên liếp để thoát nước nhanh trong mùa mưa. Ở vùng cao, sầu
riêng được trồng trên đất bằng thường có tuổi thọ cao hơn.
Cần trồng cây chắn gió (tre,
lục bình,…) chung quanh vườn để chắn bốt gió, giảm việc rụng hoa, trái, tổn
thương lá,…Trong những năm đầu cho trái nếu cây sai trái thì cần chống đỡ để
tránh gãy nhánh.
Ở ĐBSCL nên trồng trên mô và
bồi liếp tăng dần chiều dầy tầng canh tác, tránh úng rễ do nước ngập hàng năm.
Trộn mỗi mô đất với tro trấu, phân chuồng hoai mục và khoảng 0,5 kg super lân.
Mô rộng khoảng 1-2 m, cao 0,3-0,5 m tùy địa hình.
3.3. Trồng vă chăm sóc
3.3.1. Khoảng cách trồng
Khoảng cách cây cần thay đổi
tùy loại cây giống. Khoảng cách trồng trung bình 8 x 8 m. Trồng một hàng trên
liếp đơn hay hai hàng theo hình nanh sấu trên liếp đôi.
3.3.2. Trồng vă chăm sóc cây
con
Loại bỏ vật liệu làm bầu,
đặt cây vào lỗ đào trên mô, lấp đất vừa quá mặt bầu cây con, ém đất xung quanh
gốc. Cắm cục giữ cây, tưới đẫm nước. Dùng rơm hay cỏ khô đậy mô giữ ẩm. Cần che
mát cây con trong thời kỳ đầu. Khi cây phát triển qua 1 mùa khô thì loại bỏ dần
vật liệu che mát.
Nếu bứng bầu đất thì sau khi
bứng nên để bầu cây con nằm ngang trên mặt đất ở nơi thoáng mát vài ngày mới
trồng vào đất.
Che nắng hướng Tây trong 12
tháng đầu, nhất là vào các tháng nắng chiều, vì cây phát triển rất chậm trong
điều kiện nắng gắt.
HIỆN TƯỢNG CHẾT CÂY CON SAU KHI
TRỒNG
Cây sầu riêng con khi đem trồng
thường có tỷ lệ chết cao. Hiện tượng này có thể do một hay nhiều nguyên nhân
sau:
- Thiếu nước tưới hoặc tưới
không đủ làm cây bị hốc. Trồng cây không che mát ở giai đoạn đầu. Đất không
thoát nước tốt.
- Đất sét nặng làm rễ cây con
kém phát triển, suy yếu dần. Đất nhiễm phèn, mặn, đất mới còn nhiều chất hữu cơ
chưa hoai mục gây ngộ độc.
- Cây con có hệ thống rễ nhánh
ít, nhất là cây chiết nhánh hoặc cấy tháp đọt, tháp cành. Rễ cây con tương đối
giòn, dễ gãy khi vận chuyển bị sốc (đường xe). Cây con không được giữ chắc chắn
sau khi trồng, bị gió thường xuyên sẽ làm lung lay rễ, tược tháp.
- Cây con bị thối rễ do nấm
bệnh hoặc bị bệnh thán thư nặng (đốm lá) không hồi phục được.
- Bón quá nhiều phân nhất là
phân đạm.
- Chọn đất tốt, nhẹ. Phần đất
dưới đáy hố trồng cần làm tơi xốp. Nên bón lót phân lân, tro trấu.
- Cây con đem trồng cần có
nhiều rễ nhánh.
- Nếu đường xa nên vận chuyển
bằng ghe và nên giảm cây 2-3 tháng để dưỡng trước khi trồng.
- Tưới đủ nước
- Cây con cần được che mát
tránh ánh nắng trực tiếp trong năm đầu tiên sau khi trồng. Buộc giữ cây chắc
chắn.
- Tránh bón quá nhiều phân, bón
phân chia làm nhiều lần. Nên pha phân để tưới trong giai đoạn đầu.
- Phòng trị các loại nấm gây
hại ở giai đoạn liếp ương (đối với cây tháp) như :Sclerotium, Rhizoctonia,
Pythium, Fusarium và thán thư (colletotricum).