Ngày nay nhu cầu
tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi của nhân dân ngày càng cao, đặc biệt là các loại
thịt đặc sản quý hiếm. Một trong những động vật hoang dã được nhiều người
Việt ưa chuộng đó là lợn rừng. Thuần hóa lợn rừng, lai tạo với lợn nhà đang
được nhiều trang trại và các cơ sở chăn nuôi của nước ta nghiên cứu và ứng
dụng.
1/ Giống và đặc điểm giống
Tên gọi: Heo rừng lai là con lai giữa heo rừng
đực với heo nái là heo địa phương thả rông của người dân tộc thường nuôi
(giống heo gần như hoang dã) tạo ra con lai với ưu thế lai cao của cả bố và
mẹ: Có sức đề kháng mạnh, khả năng chịu đựng kham khổ với môi trường sống tự
nhiên cao, ít dịch bệnh, tỷ lệ hao hụt rất thấp…
Vóc dáng: Heo rừng lai cân đối, nhanh nhẹn, di
chuyển linh hoạt, hơi gầy, dài đòn, lưng thẳng, bụng thon, chân dài và nhỏ,
cổ dài, đầu nhỏ, mõm dài và nhọn, tai nhỏ vểnh và thính, răng nanh phát triển
mạnh, da lông màu hung đen hay xám đen, một gốc chân lông có 3 ngọn, lông dọc
theo sống lưng và cổ dày, dài và cứng hơn, ánh mắt lấm lét trông hoang dã…
Trọng lượng lúc trưởng thành (con đực thường lớn hơn con cái), con đực nặng
50 - 70 kg, con cái nặng 30 - 40 kg…
Tập tính sinh hoạt và môi trường sống:
Heo rừng lai hơi nhút nhát, thính giác, khứu giác tốt, sinh hoạt bầy đàn và
chọn lọc tự nhiên thể hiện tính hoang dã… Thích sống theo bầy đàn nhỏ vài ba
con, heo đực thường thích sống một mình (trừ khi heo cái động dục).
Môi trường sống thích hợp là vườn cây,
trảng cỏ gần ao hồ… Thích hoạt động về ban đêm, ban ngày tìm nơi yên tĩnh,
kín đáo để ngủ, nghỉ…
Giá trị và thị trường: Thịt heo rừng lai màu
hơi nhạt, không đỏ như thịt heo nhà, nhưng nhiều nạc, ít mỡ, da mỏng và dòn,
thịt dòn thơm ngon rất đặc trưng, hàm lượng Cholerteron thấp, người tiêu dùng
rất ưa chuộng nên bán được giá cao…
Thấy được giá trị của heo rừng, những năm gần
đây, nhiều hộ gia đình ở các tỉnh như Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước… đã tổ
chức thuần hoá heo rừng, tổ chức lai tạo, chăm sóc nuôi dưỡng heo rừng lai,
tổ chức liên doanh, liên kết tiêu thụ sản phẩm với các nhà hàng, khách sạn ở
các thành phố lớn mang lại hiệu quả kinh tế cao.
2/ Chọn giống và phối giống
Chọn giống
: Chọn những con đầu thanh, ngực sâu,
mình nở, hoạt bát, lưng thẳng, bụng to vừa phải, hông rộng, lông mịn, bốn
chân chắc khoẻ, bộ phận sinh dục phát triển và hoạt động tốt. Nếu có điều
kiện nên chọn lọc qua đời trước (dòng, giống bố mẹ, ông bà…), qua bản thân
(ngoại hình, khả năng thích nghi, khả năng sản xuất…) và qua đời sau.
Ghép đôi giao phối:
Tốt nhất, nên cho heo rừng lai cái phối giống
với heo rừng đực hoặc cho heo rừng lai cái phối giống với heo rừng lai đực để
tạo ra con lai thương phẩm nuôi thịt…
Phối giống và thời điểm phối giống thích hợp:
Bỏ qua 1 - 2 lần động dục đầu tiên, vì cơ thể
chưa hoàn thiện, trứng rụng ít, phối giống, đậu thai hiệu quả thấp.
Chu kỳ động dục của heo là 21 ngày,
thời gian động dục kéo dài 3 - 5 ngày. Thời điểm phối giống thích hợp vào
cuối ngày thứ 2 hoặc đầu ngày thứ 3 (tuỳ theo giống, tuổi), cho nên cần theo
dõi biểu hiện của heo lên giống. Khi âm hộ chuyển từ màu hồng tươi sang màu
hồng tái, có nếp nhăn và dịch nhờn tiết ra nhiều, tai chĩa về phía trước, có
phản xạ đứng im (mê ì) là thời điểm phối giống thích hợp nhất.
Khi heo cái có dấu hiệu động dục ta cho
heo đực vào vườn nuôi heo cái hay cho heo cái vào vườn nuôi heo đực. Heo đực
sẽ phối giống liên tục, bất kể ngày đêm đến khi nào heo cái không chịu nữa
mới thôi. Có thể cho phối kép 2 lần vào lúc sáng sớm và chiều mát (hoặc ngược
lại). Sau 21 ngày, heo cái không động dục trở lại, có thể heo cái đã có bầu.
3/ Chuồng trại
Chuồng
trại rất đơn giản, tuy nhiên, phải nắm vững một số đặc điểm và tập tính của
heo rừng lai để bố trí chuồng trại.
Nên chọn chỗ đất cao và thoát nước để bố trí
nuôi. Chỗ nuôi cũng nên có nguồn nước sạch. Nó không những cung cấp đủ nước
cho heo uống mà quan trọng hơn là nó sẽ duy trì được hệ thực vật phong phú
tại nơi nuôi chúng và giữ được độ ẩm thích hợp.
Chuồng trại càng cách xa khu dân cư và đường
sá càng tốt. Bản năng hoang dã đã đưa chúng vào tình trạng hết sức cảnh giác
và luôn hoảng hốt bỏ chạy khi nghe có tiếng động.
Ta có thể nuôi heo rừng lai theo
kiểu nhốt trong chuồng hoặc nuôi theo kiểu thả rông trong những khu vực có
cây xanh, có rào che chắn xung quanh. Điều quan trọng là hệ thống hàng rào
phải hết sức chắc chắn. Ta có thể vây lưới B40 thành các vườn nuôi tự nhiên,
có móng kiên cố (vì heo rừng lai hay đào hang), mỗi vườn nuôi rộng 50 - 100m2
(tuỳ theo khả năng đất đai) trong đó có chuồng nuôi rộng 20 - 30m2 nuôi
khoảng 4 - 5 heo cái trưởng thành, chúng sẽ sống và sinh sản trực tiếp trong
khu vực này. Heo đực giống nuôi riêng, mỗi con một vườn, mỗi vườn nuôi rộng
40 - 50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5 - 10m2. Chuồng nuôi, có mái che mưa,
che nắng, cao trên 2,5m, nền đất tự nhiên, có độ dốc 2 -3%… đảm bảo thông
thoáng, sạch sẽ, mát mẻ về mùa hè, ấm áp về mùa đông, tránh mưa tạt, gió lùa…
Với quy mô ban đầu nuôi 10 con (1 đực, 9
cái) cần có 3 vườn nuôi. Hai vườn nuôi heo cái sinh sản, mỗi vườn rộng 50 -
100m2 trong đó có 2 chuồng nuôi, mỗi chuồng rộng 20 - 30m2. Một vườn nuôi heo
đực giống rộng 40 - 50m2 trong đó có chuồng nuôi rộng 5 - 10m2…
4/ Thức ăn và khẩu phần thức ăn:
Bao gồm, thức ăn xanh tươi (cỏ,
cây các loại), thức ăn tinh (hạt ngũ cốc, củ quả, mầm cây, rễ cây các loại),
muối khoáng như tro bếp, đất sét, hỗn hợp đá liếm... Thực tế cho thấy, heo
rừng thường tìm đến nương rẫy mới đốt kiếm tro, đất sét để ăn.
Khẩu phần thức ăn cho heo rừng lai
thông thường: 50% là rau, củ, quả các loại (có thể sản xuất tại trang trại),
50% là cám, gạo, ngũ cốc các loại, hèm bia, bã đậu… Mỗi ngày cho ăn 2 lần
(sáng, chiều), một con heo lai trưởng thành tiêu thụ hết khoảng 2,0 - 3,0kg
thức ăn các loại.
Thức ăn cho heo rừng lai, do con
người cung cấp có thể thiếu dinh dưỡng, nhất là đạm, khoáng và sinh tố… cho
nên ngoài việc bổ sung thức ăn tinh giàu đạm, sinh tố, cần thiết phải bổ sung
thêm đá liếm cho heo. Hỗn hợp đá liếm bổ sung khoáng có thể mua hay tự trộn
theo tỷ lệ (muối ăn 100g; sắt sunphát 100g; đồng sunphát 50g; diêm sinh 100g;
vôi tôi 1.000g… đất sét vừa đủ 3kg) cho heo liếm tự do cũng chỉ hết khoảng 20
- 25 gam/con/ngày.
Thức ăn của heo rừng lai chủ yếu
là thực vật. Không nên lạm dụng thức ăn giàu dinh dưỡng để nuôi heo rừng lai
vì nó sẽ làm cho phẩm chất thịt của heo rừng lai bị biến đổi và nhiều khi làm
cho heo bị bệnh tiêu chảy...
Heo ăn thức ăn xanh tươi ít uống nước, tuy
nhiên cũng cần có đủ nước sạch và mát cho heo uống tự do. Nước không có ý
nghĩa về mặt dinh dưỡng, nhưng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự tồn
tại và phát triển của heo, nhất là khi thời tiết nắng nóng…
Hàng ngày phải vệ sinh chuồng trại, dọn bỏ
thức ăn thừa, rửa sạch máng ăn, máng uống…
5/ Chăm sóc nuôi dưỡng:
Heo rừng lai thích hợp với phương thức nuôi chăn thả trong vườn
cây có rào dậu hay chăn thả tự nhiên, ít có sự tác động của con người. Heo
rừng lai rất dễ nuôi, hiệu quả kinh tế cao.
Khẩu phần thức ăn chủ yếu là
thức ăn tươi sống, rau, củ quả, mầm cây, rễ cây, thức ăn tinh gồm hạt ngũ cốc
các loại, thức ăn bổ sung muối khoáng như tro bếp, đất sét… Ngoài ra, cũng có
thể bổ sung vào chuồng nuôi hoặc vườn nuôi chăn thả một số thức ăn tinh hỗn
hợp, xương, bột xương, bột sò, hỗn hợp đá liếm… cho heo ăn tự do có vậy thì
răng nanh mới bị cùn bớt.
Heo đực giống: Quản lý và
chăm sóc tốt, 1 heo đực có thể phối 5 - 10 heo cái. Heo đực giống phải nuôi
riêng và có chế độ bồi dưỡng, nhất là thức ăn tinh giàu đạm. Ngày phối giống
bổ sung thêm thức ăn tinh, 1 - 2 quả trứng, muối khoáng, sinh tố cho ăn tự
do...
Heo cái giống: Heo rừng lai
mắn đẻ, đẻ nhiều con, mỗi năm có thể đẻ 2 lứa, mỗi lứa 6 - 7 con, cá biệt có
lứa đẻ 9 - 10 con và khéo nuôi con (nuôi con rất giỏi). Trong tự nhiên, khi
đẻ heo mẹ tự chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và tự tách bầy khi con lớn…
Heo rừng lai sinh sản tự nhiên
quanh năm. Vấn đề cơ bản là theo dõi biểu hiện lên giống và xác định thời
điểm phối giống thích hợp. Thời gian mang thai 3 tháng, 3 tuần, 3 ngày (114 -
115 ngày) thì đẻ.
Đối với heo nái mang thai, 2 tháng đầu mang
thai cho ăn khẩu phần thức ăn bình thường rau, củ, quả, hạt ngũ cốc các loại…
có thể bổ sung thêm thức ăn tinh hỗn hợp, 15g muối, 20g khoáng mỗi ngày. Sau
2 tháng đến khi đẻ cần thiết phải bổ sung thêm thức ăn tinh giàu dinh dưỡng,
nhất là đạm, khoáng, sinh tố… Ngày heo đẻ có thể cho heo ăn cháo loãng, ít
muối, ít rau xanh để đề phòng sốt sữa… Heo mang thai nên nuôi riêng để tiện
chăm sóc nuôi dưỡng…
Đối với heo nái nuôi con, khẩu phần thức ăn
phải đảm bảo số lượng, chất lượng và chủng loại. Khi heo con được 1,5 - 2
tháng tuổi, đã ăn được thức ăn do con người cung cấp thì cho mẹ ăn khẩu phần
ăn bình thường. Không nên phối giống cho heo nái động dục trong thời kỳ nuôi
con, vì khó thụ thai hoặc thụ thai nhưng số lượng và chất lượng heo con sinh
ra không đạt yêu cầu.
Heo con:
Heo sơ sinh màu lông đen, có những sọc nâu vàng
chạy dọc thân, không cần đỡ đẻ, cắt rốn, chỉ khoảng 30 phút đến 1 tiếng đồng
hồ heo con đã có thể đứng dậy bú mẹ. 15 - 20 ngày chạy lon ton và bắt đầu tập
ăn cỏ, cây. Heo con được 1,5 - 2 tháng tuổi đã cứng cáp, ăn được thức ăn do
con người cung cấp thì cai sữa, tách bầy làm giống…
Heo sơ sinh có thể đạt 300 - 500
gam/con, 1 tháng tuổi 3 - 5kg, 2 tháng tuổi 8 - 10kg, 6 tháng tuổi 20 - 25kg,
12 tháng tuổi có thể đạt 60-70% trọng lượng trưởng thành. Với cách nuôi và
chế độ dinh dưỡng thông thường, sau 6 tháng nuôi, heo con có thể đạt trọng
lượng 25kg và bán thịt.
Hàng ngày, nên cho heo con vận động và tiếp xúc gần gũi với con người.
6/ Công tác thú y:
Heo
rừng lai là vật nuôi mới được lai tạo, sức đề kháng cao, ít dịch bệnh. Tuy
nhiên, heo rừng lai cũng thường bị một số bệnh như: Dịch tả, tiêu chảy, tụ
huyết trùng, lở mồm long móng, bệnh sán lá, bệnh ghẻ lở và một số bệnh
khác...
Khi heo rừng lai mắc một số bệnh
về đường tiêu hoá có thể dùng các loại thuốc trị đau bụng, sình bụng, đầy
hơi, khó tiêu… Cho uống hay chích, hoặc có thể dùng 5 - 10kg rau dừa dại cho
heo ăn hoặc bổ sung thức ăn, nước uống đắng, chát như ổi xanh, cà rốt, rễ
cau, rễ dừa… cũng có thể khỏi.
Chăm sóc nuôi dưỡng tốt, ăn uống
sạch sẽ, thức ăn đảm bảo vệ sinh và giá trị dinh dưỡng, chuồng trại luôn sạch
sẽ... Cần áp dụng tốt các biện pháp an toàn sinh học như: Vệ sinh, sát trùng
chuồng trại, cách ly khu vực chăn nuôi với các khu vực xung quanh… định kì
tiêm phòng các bệnh truyền nhiễm như phó thương hàn, dịch tả, lở mồm long
móng (FMD), E.coli… theo đặc điểm dịch tễ học của vùng và qui định của cơ
quan thú y
. Khi thời tiết thay đổi hoặc trạng thái
sức khoẻ đàn heo có biểu hiện bệnh, cần thiết phải bổ sung kháng sinh vào
thức ăn hoặc nước uống cho heo theo quy trình “dùng thuốc 3 ngày, nghỉ 7 hoặc
10 ngày, rồi dùng tiếp 3 ngày”, cứ thế cho đến khi đàn heo trở lại bình
thường, với liều phòng chỉ bằng 1/2 - 1/3 liều điều trị…
|