1. Thời vụ gieo trồng
Mè có thể trồng quanh năm, tuy nhiên tuỳ điều kiện địa hình của từng vùng chọn thời điểm xuống giống thích hợp và mang lại hiệu quả kinh tế nhất. Mè là cây chịu hạn, nhưng để hạt giống nảy mầm tốt yêu cầu đất phải đủ ẩm, đất quá khô hay thừa nước đều làm hạt nảy mầm yếu và không đồng đều.
- Vụ Đông Xuân: Gieo từ tháng 12-1 dương lịch, thu hoạch tháng 2–3 dương lịch, vụ này cho năng suất cao nhất trong năm, thuận lợi cho thu hoạch và phơi hạt dễ dàng, hạt có màu sáng đẹp, ít bị nấm mốc tấn công. Trồng mè vụ ĐX cây ít đổ ngã, ít sâu bệnh, tuy nhiên trong vụ ĐX cây mè khó cạnh tranh được với cây ngô, lạc.
- Vụ Hè Thu: Nên trồng trên đất cao, thoát nước tốt, tránh úng khi gặp mưa nhiều. Gieo vào tháng 4-5 dương lịch thu hoạch vào tháng 6-7 dương lịch.
Chủ yếu làm ở vụ Hè Thu, gieo trên đất màu hoặc đất lúa sau khi đã thu hoạch xong lúa vụ Đông Xuân. Vụ này hay gặp hạn khi gieo và gặp mưa to gây ngập úng cục bộ ở một số vùng vào thời kỳ thu hoạch. Vì vậy gieo càng sớm càng tốt.
2. Giống
Phân loại về màu sắc có hai loại:
- Mè đen: Dễ trồng, mọc khỏe, sai quả, chín muộn hơn mè trắng, thời gian sinh trưởng 3,0-3,5 tháng, thích hợp với đất và khí hậu đồi núi.
- Mè trắng: Loại quả tròn, sai quả, chín sớm, thời gian sinh trưởng 2,5-3 tháng, thích hợp với việc tăng vụ trồng xen
3. Làm đất
- Đất trồng mè: Thích hợp trên các chân đất thịt nhẹ, đất cát pha và thoát nước tốt.
- Làm đất: Hạt mè rất nhỏ nên phải làm đất thật kỹ, nếu không làm đất kỹ hạt mè sẽ bị vùi khó nảy mầm. Đất cày sâu 15-20 cm, bừa kỹ nhiều lượt. Làm đất thật nhỏ và sạch cỏ, sau đó tiến hành lên luống.
- Lên luống: Lên luống cao 15-20cm, luống rộng 1,5-2,5m, rãnh rộng 30-35cm để thoát nước tốt, mặt luống có hình lưng rùa. Những vùng đất cát pha, tơi xốp, thoát nước tốt thì gieo mè xong mới vét rãnh thoát nước, tạo thành từng luống rộng từ 2,5-3m.
4.Gieo hạt
Lượng giống cần cho 1 sào (500m2): Sạ lan 0,25kg. Trước khi tỉa phơi nắng nhẹ để kích thích hạt nảy mầm.
Sau khi lên luống xong, dùng mè trộn với tro bếp hoặc đất bột rải đều trên mặt luống, sau đó dùng cành cây kéo qua hoặc bừa lướt nhẹ, để lấp hạt mè 1-2cm. Nên gieo vào lúc đất đủ ẩm, hạt dễ nảy mầm. Sau gieo nên phủ một lớp rơm mỏng (100 kg rơm/500m2) để giữ ẩm cho đất. 3 ngày sau khi gieo, hạt bắt đầu nảy mầm, lúc này giữ ruộng đủ ẩm (không cho nước vào, nếu cho nước vào mè sẽ bị thối). Nếu sau khi gieo mè gặp trời mưa thì phải bừa nhẹ để phá váng.
Chú ý : Không lấp đất sâu hạt khó nảy mầm.
5. Phân bón
* Lượng phân bón cho 1 sào (500m2):
- Phân chuồng hoai mục 200-250kg/sào hoặc 25 kg hữu cơ vi sinh.
- Vôi bột: 15kg/sào. - Lân super: 22,5kg.
- Ure: 5kg. - Kali clorua: 5kg.
* Cách bón:
- Cách 1: Bón lót tất cả các loại phân trên vào lần cày bừa cuối cùng (đối với đất không cày thì bón trước khi bừa). Riêng đất quá xấu bón thúc 2kg urê/sào khi mè 2-3 lá. (Đối với Đà Nẵng chủ yếu trồng mè trong vụ Hè Thu, thường trồng ở những vùng thiếu nước tưới thì nên bón theo cách này)
- Cách 2:
+ Bón lần 1: Bón lót vào lần cày bừa cuối cùng toàn bộ phân chuồng hoặc hữu cơ vi sinh, vôi bột, lân super và 2,5kg ure + 2,5kg kali (đối với đất không cày thì bón trước khi bừa).
+ Bón lần 2: Bón sau gieo 30 ngày kết hợp xới xáo vun gốc: 2,5 kg ure + 2,5kg kali.
6. Chăm sóc
- Tưới nước: Mè là cây chịu hạn tốt, nhưng thiếu nước năng suất không cao, mè cần nhiều nước từ lúc gieo cho đến khi ra hoa đầu tiên, sau đó giảm dần. Trên đất thoát nước tốt có thể tưới tràn, sau đó cho nước rút nhanh qua các rãnh, đất thoát nước kém nên áp dụng tưới phun. Mè là cây chịu úng kém, sau khi mưa to cần tiêu nước kịp thời
- Tỉa cây, làm cỏ: Sau khi gieo 10-15 ngày tỉa định cây (bỏ bớt cây ở những nơi quá dày), cây cách cây khoảng 5-7cm, đảm bảo mật độ 50 – 60 cây/m2 là vừa. Công việc này rất quan trọng vì mật độ ảnh hưởng rất lớn đến năng suất. Mật độ dày, cây ốm yếu, kém phát triển. Kết hợp làm cỏ lần 1 với xới xáo, có thể phun phân qua lá để giúp cây khỏe . Đối với đất xấu, mè kém phát triển: bón thúc 2kg urê/sào.
Sau tỉa 30 ngày làm cỏ lần 2 kết hợp vun gốc, bắt sâu khoang, sâu cuốn lá, nhổ bỏ cây bị nhiễm bệnh vi khuẩn.
7. Phòng trừ sâu bệnh
7.1. Sâu khoang
Sâu khoang là loài ăn tạp, sâu non có màu nâu đen, đốt bụng thứ nhất có một vết đen to bao quanh, Sâuăn trụi lá, cắn đứt ngang cây. Thời kỳ ra hoa làm quả thì làm rụng hoa, đục khoét quả làm ảnh hưởng tới năng suất
Ngài cái sâu khoang thường đẻ trong 6 ngày liền, trứng nở sau 3-4 ngày, tùy thuộc vào nhiệt độ. Thời gian sinh trưởng sâu non chừng 3 tuần, nó trải qua 6 tuổi. Ảnh hưởng thuốc sâu rất mạnh khi sâu ở tuổi 1-2, khi sâu lớn, dường như kháng tất cả các loại thuốc. Sâu non ban ngày núp dưới đất và ăn vào ban đêm. Vì vậy, phun thuốc vào chiều tối và phun khi sâu ở tuổi 1, 2 mới có hiệu quả.
Có thể dùng một trong các loại thuốc sau: Padan 95SP, Sherpa 25EC, Cyperan 25EC.
7.2. Sâu cuốn lá
Sâu thường tập trung ở trên lá ngọn và nhả tơ cuốn hai mép lá mè vào nhau để sinh sống, sâu ăn biểu bì làm hỏng lá, ảnh hưởng đến quang hợp của cây, làm giảm năng suất.
Khi sâu ở mật độ cao, dùng một trong các loại thuốc sau để diệt trừ: Sherpa 25EC, Cyperan 25EC…liều dùng theo khuyến cáo trên nhãn mác.
7.3. Rệp hại mè
Rệp sống tập trung từng đàn trên thân, lá ở phần ngọn, quả non. Rệp chích hút nhựa cây làm cho cây kém phát triển, lá ngọn xoắn lại, hoa ít, quả nhỏ ảnh hưởng tới năng suất. Chất thải của rệp là môi trường cho nấm bồ hóng phát triển làm đen cây.
- Khi mật độ rệp cao dùng các loại thuốc sau để diệt trừ: Regent 800WG, Actara 25EC… liều dùng theo khuyến cáo trên nhãn mác.
7.4. Rầy xanh
Rầy trưởng thành dài 2-3 mm, màu xanh lá mạ, hình thoi, đuôi nhọn. Ban ngày rầy ẩn dưới tán lá hoặc phía bên kia ánh sáng mặt trời, khi bị động rầy bò ngang và lẩn trốn nhanh.
Rầy non hình dạng giống rầy trưởng thành, không có cánh, màu xanh nhạt hoặc xanh vàng.
Rầy sống tập trung ở mặt dưới lá nên khó phát hiện, chích hút nhựa làm lá xoăn lại chuyển màu hơi vàng, rìa lá bị cháy và mật số rầy cao sẽ làm cháy lá, cây suy yếu không phát triển, rụng hoa và trái non. Rầy xanh cũng là tác nhân truyền bệnh virus cho cây mè.
Phòng trị: Có thể dùng một trong các loại thuốc sau: Actara 25EC, Applaud 10 WP,...
7.5. Bọ trĩ
Bọ trĩ xuất hiện từ lúc mè còn nhỏ (10-15 ngày sau gieo).
Bọ trĩ có kích thước rất nhỏ, còn non màu trắng sữa, di chuyển rất nhanh, thường ở dưới mặt lá non, chích hút nhựa làm lá bị vàng, cây cằn cỗi, kém phát triển.
Khi mật số cao có thể phun xịt thuốc như: Actara 25 WG, Admire 050 EC, Confidor 100SL.
7.6. Nhện đỏ
Nhện đỏ có kích thước rất nhỏ 0,2-0,3mm. Nhện đỏ sống ở cả hai mặt lá, thường tập trung dọc hai bên gân chính của lá, di chuyển chậm chạp. Nhện gây hại làm lá đậu chuyển thành màu hung đỏ. Tại nơi chúng sống có thể có một lớp mạng nhện bao phủ được tạo bởi các sợi tơ ngắn và mảnh. Nhện dùng vòi hút dạng kim châm hút dịch cây làm cây sinh trưởng kém, lá cây bị hại biến màu nâu lốm đốm đến màu tím đồng, trên mặt lá có nhiều bụi bẩn màu trắng xám. Cây bị hại nặng mép lá non cong lên, lá rụng dần, năng suất bị giảm nghiêm trọng.
Khi phun trừ có thể sử dụng một trong các loại thuốc như: Ortus 5EC, Suparcide.
7.7. Bệnh lỡ cổ rễ, chết cây con (do nấm Rhizoctonia bataticola)
Bệnh gây hại chủ yếu ở giai đoạn cây con, vết bệnh thường xuất hiện nơi tiếp giáp với mặt đất, vết bệnh có màu xanh tái, sau chuyển màu nâu và lan rộng quanh gốc, làm gốc teo lại, cây héo và chết. Lúc đầu một vài cây bị bệnh, sau lan rộng làm chết từng chòm. Nấm bệnh phát triển thích hợp ở điều kiện nhiệt độ khoảng 30oC. Sợi nấm và hạch nấm lưu tồn trong đất và lây lan sang vụ sau.
Phòng trừ:
- Chọn đất trồng mè phải cao ráo, dễ thoát nước;
- Không sử dụng rơm rạ vụ trước đã nhiễm bệnh khô vằn để tủ mè;
- Khi bệnh chớm phát có thể phun các loại thuốc như: Validacin 3L, Anvil 5SC...
7.8. Bệnh héo vàng (do nấm Fusarium oxysporium)
Do nấm Fusarium oxysporium gây ra. Biểu hiện đầu tiên dễ nhận thấy là cây sinh trưởng kém, các lá già phía dưới biến vàng, sau đó lần lượt đến các lá phía trên, gốc cây có vết nâu đen, bổ dọc thân cây thấy mạch dẫn gần gốc bị hoá nâu. Khi cây bị bệnh nặng, toàn cây héo vàng và khô chết. Nấm bệnh phát triển thích hợp ở nhiệt độ 30 – 35oC. Sợi nấm và bào tử tồn tại trên tàn dư cây bệnh và hạt giống lan truyền sang vụ sau.
Phòng trừ:
- Vệ sinh đồng ruộng, nhổ bỏ các cây bị bệnh.
- Khi bệnh chớm phát có thể phun Copper-B, Kocide, COC 85, tuy nhiên hiệu quả của việc phun thuốc trừ bệnh không cao.
7.9. Bệnh héo xanh vi khuẩn (do vi khuẩn Pseudomonas Solanacerum
Do vi khuẩn Pseudomonas Solanacerum gây ra làm cho mè bị héo xanh đột ngột, lá vẫn giữ màu xanh, cắt ngang cây thấy bó mạch có màu nâu sẫm, rễ bị đen và thối, bóp nhẹ chỗ bị thối có dịch nhầy trắng tiết ra. Bệnh gây hại từ lúc cây con đến khi thu hoạch, vi khuẩn thường ký chủ trên nhiều loại cây nhất là cây họ đậu, họ cà.
Bệnh phát sinh mạnh ở nhiệt độ 25-350C khi trời có mưa nắng xen kẽ, ẩm độ đất cao, ruộng thoát nước chậm.
Biện pháp phòng trừ: Đây là bệnh nguy hiểm và gây hại nặng trên diện rộng, hiện nay chưa có thuốc đặc hiệu để phòng trừ. Để hạn chế tối đa bệnh héo xanh do vi khuẩn, cần thực hiện một số biện pháp sau:
- Bón đầy đủ vôi và phân cân đối;
- Giữ đúng mật độ quy định.
- Luống mè phải cao, thoát nước nhanh khi mưa to.
- Nhổ bỏ và tiêu huỷ cây mè bị nhiễm bệnh.
- Phun phòng bằng các loại thuốc như COC 85, Kasumin, Starner…
7.10. Bệnh đốm phấn trắng (do nấm Oidium.sp):
Bệnh lan truyền rất nhanh, bệnh phát sinh chủ yếu trên bề mặt lá, lúc đầu là những đốm nhỏ màu vàng nhạt, về sau vết bệnh lan rộng không có hình dạng rõ rệt, trên vết bệnh có lớp phấn màu trắng, sau chuyển vàng, có các chấm đen nhỏ là các ổ bào tử.Lá bị nặng có màu vàng và khô, cây sinh trưởng kém, hoa rụng, quả ít. Bệnh phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết nóng, mưa nhiều.
Phòng trừ: Có thể phun một trong các loại thuốc như Carbenzim, Viben-C, Anvil 5SC .
7.11. Bệnh thối thân (do nấm Macrophomina phaseolina)
Bệnh tấn công trên thân, vết bệnh có màu đen rất rõ, sau đó thối dần, quả cũng có thể bị nhiễm bệnh, xuất hiện các hạch nấm nhỏ màu đen. Nhiệt độ thích hợp để bệnh phát triển 20-350C, thời tiết khô hạn và nắng mưa xen kẻ. Nấm bệnh tồn tại trong đất nên việc phòng trừ rất khó.
Phòng trừ: Có thể sử dụng một trong các loại thuốc sau: Anvil 5SC, Ridomil gold 68WP, New Kasuran …
7.12. Bệnh khảm: Đây là bệnh quan trọng khi trồng mè. Bệnh do rầy xanh, bọ trĩ, rầy mềm... truyền virus làm lá có màu vàng xanh lỗ chỗ, bị xoắn và biến dạng. Bệnh không trị được nên phải diệt tác nhân truyền bệnh.
8. Thu hoạch, bảo quản
Thu hoạch: Khi mè đã ngả màu toàn thân, tiến hành thu hoạch, khi thu hoạch có thể dùng lưỡi hái cắt sát gốc (cách mặt đất khoảng 20-30cm), bó thành từng bó. Sau khi thu hoạch về trời nắng thì đem ủ 1 ngày đêm rồi đem phơi và đập lấy hạt, trường hợp thu hoạch về gặp mưa thì dựng đứng bó mè đến khi trời nắng đem ra phơi.
Mè là quả khô tự khai (tự nứt vỏ), do đó phải thu hoạch đúng lúc để giảm bớt thất thoát. Cây mè vừa thu hoạch xong, không chất nằm thành đống vì sẽ làm giảm chất lượng hạt.
Bảo quản
- Nếu bảo quản làm giống nên giữ trong chai, lu hũ, bên trên có một lớp tro trấu để hút ẩm. Chú ý lấy những trái ở giữa cây để làm giống
- Bảo quản để sử dụng, buôn bán chỉ cần để trong bao và để nơi thoáng mát./.