1. Đặc điểm thực vật và sinh học cây măng tây
Măng tây thuộc cây trồng lâu năm, dạng bụi, thân thảo. Cây có hoa đơn tính khác gốc. Có khoảng một nửa số cây mang hoa đực, một nửa mang hoa cái. Hoa có màu vàng hoặc lục nhạt. Quả mọng, ba ngăn, khi chín có màu đỏ. Mỗi ngăn có 1 - 2 hạt màu đen, vỏ hạt rất cứng.
Mỗi gam có khoảng 40 - 60 hạt. Trọng lượng 1000 hạt là 20g. Hạt măng tây có thể nảy mầm ở nhiệt độ 200C nhưng thích hợp là 250C và đây cũng là nhiệt độ trung bình cần thiết cho cây phát triển. Ngay sau khi hạt nảy mầm, rễ chính rất ngắn bị chết. Thay vào đó là một rễ trụ thẳng đứng được tạo thành và các rễ khác mọc ngang từ rễ trụ này. Sau đó ở khoảng cách gần mặt đất, trên các đốt của rễ trụ hình thành các thân mầm mới - được gọi là măng. Măng là nơi tập trung các chất dinh dưỡng của cây khi còn non. Măng được thu hoạch trong nhiều năm (8 - 10 năm) nhưng sản lượng lớn thường tập trung ở các năm thứ 3 - thứ 5. Sang năm thứ 7 - 8, khi năng suất và chất lượng giảm thì cần phá đi để trồng mới. Các cây hoa đực hình thành rất nhiều mầm và sống lâu hơn, cho sản lượng măng cao hơn cây hoa cái khoảng 25% nhưng chất lượng kém hơn. Trước khi nhú khỏi mặt đất, măng có màu trắng, mềm, khi mọc cao khỏi mặt đất chúng ngả màu xanh và phát sinh cành có thể dài tới 2 m.
Măng tây là cây ưa ánh sáng. Trồng măng tây ở nơi bị che lợp, hiệu suất quang hợp thấp, cây sinh sản kém, năng suất măng sẽ giảm.
Măng tây rất mẫn cảm với đất trồng. Đất trồng măng tây phải có độ phì cao, tơi xốp, giàu mùn. Măng tây không chịu được đất chua, độ pH 6 - 7.Để có măng mềm, ngọt, cần phải giữ ẩm đều. Độ ẩm đất khoảng 65 - 70%.
2. Giống măng tây
Có 2 nhóm măng tây được trồng hiện nay:
- Măng xanh, đại diện là giống F California 500. Loại này cho năng suất cao, dễ trồng, dễ thu hoạch, song giá trị thương phẩm không cao.
- Măng trắng, đại diện là giống F Mary Washington. Đây là giống trồng phổ biến, cho năng suất và chất lượng cao. ở các điểm trồng thử nghiệm 2 giống trên tại Viện nghiên cứu rau - quả (Gia Lâm), Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam (Thanh Trì) và Trung tâm kỹ thuật rau - hoa - quả (Từ Liêm) Hà Nội, năng suất năm đều đạt 7 - 8 tạ/ha, năm thứ 2 - 3 đạt 1,5 –
2 tấn/ha, năm thứ 3 trở đi đạt tới 3 tấn/ha.
3. Kỹ thuật trồng trọt
a) Vườn ươm cây con:
Có thể nhân măng tây bằng phương pháp tách mầm, nhưng thông thường hơn cả là nhân cây con từ hạt qua vườn ươm.
Trước khi gieo, ngâm hạt vào nước 350C một ngày đêm, sau đó ủ hạt ở nhiệt độ 250C đến khi hạt nứt nanh. Chọn những hạt có mầm đem gieo, hạt còn lại đãi sạch và ủ tiếp để có mầm gieo vào hôm sau.
Vườn ươm chọn nơi cao, thoát nước, làm đất thật kỹ, trộn thêm phân chuồng ủ mục với 5% supe lân. Mỗi mét vuông bón 1 - 1,5 kg. Khoảng cách hàng trong vườn ươm 15 - 20 cm, giữa các hốc 5cm. Hạt gieo sâu 1 - 1,5 cm, phủ đất, rắc một lớp trấu đã ủ hoặc mùn mục rồi tưới ẩm. Mỗi hecta cần 300 - 400 m2 vườn ươm, với lượng cây giống 22.000 - 25.000 cây. Lượng hạt giống cần cho 1 hecta khoảng 1 - 1,5 kg (đã tính 20% dự phòng).
Nên gieo hạt vào đầu mùa thu. ở đồng bằng Bắc Bộ gieo cuối tháng 8 đầu tháng 9 để có cây con trồng vào tháng 2 sau khi lập xuân.
Khi cây con lên khỏi mặt đất, cao 5 - 10cm, dùng nước phân loãng tưới thúc 10 - 15 ngày lần. Hạn chế dùng phân hóa học cho cây con trong vườn ươn. Khi cây được 1 tháng và 3 tháng, làm cỏ xới xáo và vun gốc cho cây, kết hợp bón thúc nước phân.
b) trồng, chăm sóc măng tây:
Đất trồng măng tây phải cày bừa sâu và thật kỹ. Lên luống rộng 50 - 60 cm, cao 40 cm, rãnh rộng 30 - 40cm. ở giữa các rãnh bổ hốc sâu 20 cm với khoảng cách hốc 50 cm. Bỏ phân chuồng, phân hóa học và vôi bột (nếu cần) vào hố đảo đều, lấp đất và đặt cây con vào.
Trước khi bứng cây giống để trồng 2 ngày, tưới đẫm vườn ươm, khi đem trồng bứng cây còn nguyên rễ. Trồng mỗi hốc 2 cây.
Lượng phân bón cho 1 hecta măng tây như sau: 30 - 40 tấn phân chuồng, 200 kg đạm urê, 150 kg kali sunphat. Có thể tăng lượng phân chuồng lên 50 tấn/ha để kéo dài thời gian thu hoạch và tăng sản lượng tính ra hiệu quả vẫn cao hơn. Sau khi trồng 2 tháng, có thể bón thúc với lượng phân hóa học như sau: 60 kg urê, 60 kg kali sunphat và 90 kg lân. Hàng năm, vào giữa mùa xuân, trong tháng 3 lại tiến hành bón thúc cho cây với lượng phân trên. Ngoài ra, vào thời điểm thu hoạch măng nhiều, cứ 2 tuần 1 lần, dùng nước phân pha loãng tưới cho cây, kết hợp xới xáo và vun gốc cây măng.
Tháng thứ 2 sau khi trồng. khi cây đã cứng cáp, xả đất ở luống, vun dần vào gốc cây (1/2 lượng đất trên luống). Sau đó 1 tháng, vun nốt số đất còn lại, làm thành luống cố định có kích thước 50 cm, rãnh 30 cm. Lần vun sau kết hợp bón thúc cho măng.
Cây măng được 1 năm, cần làm giàn chống đổ. ở 2 đầu luống dùng cọc tre hoặc xi măng chắc cao 1,5 - 2m. Sau đó dùng dây nhôm hoặc dây ni lông căng ở khoảng cách 0,5 và 1 mét cách mặt luống để giữ cho cây khỏi đổ. Cây cao được 50 cm đến 1 mét và 1,5 mét đều có thể bấm ngọn để hạn chế chiều cao, tăng lượng cành lá.
c. Thu hoạch măng tây:
Sản phẩm sử dụng của cây là măng non nằm dưới đất. Khi măng chưa nhô hẳn lên khỏi mặt đất cần thu hoạch để có măng chất lượng cao. Cần thu sớm trước khi mặt trời mọc để măng non khỏi biến màu (lục hóa). Dùng giằm xén trồng cây loại dài bới nhẹ gốc và lấy tay tách thân măng khỏi rễ trụ, rửa sạch đất, dùng giấy bọc lại, xếp nhẹ nhàng vào sọt hoặc xô nhựa.
Nếu chưa sử dụng ngay, cần bảo quản trong nhiệt độ thấp (trong tủ lạnh). Nếu chăm sóc tốt, năm đầu mỗi cây cho 2 - 3 mầm, năm thứ 2: 8 - 10 mầm với trọng lượng 50 - 60 g/mầm.
Chất lượng măng phụ thuộc vào đường kính gốc măng. Với cùng chiều dài 15 - 25 cm, đường kính của gốc măng khoảng 2 cm là tốt nhất, có thể xuất khẩu tươi; 1,5 - 1,9 cm là loại trung bình dùng để đóng hộp và dưới 1,4 cm dùng cho tiêu dùng nội địa.
d. Phòng trừ sâu bệnh
Măng tây ít khi bị bệnh. Sâu hại có sâu xanh, bọ trĩ. Phun Bi 58, Trisiophos.
đ. Để giống:
Quả măng già, đỏ mọng, thu về, bóp lấy hạt phơi kỹ 3 - 5 nắng rồi bảo quản để gieo vào mùa thu. Hạt thu từ cây F không dùng để làm giống.