+ Bố trí hệ thống đê bao, cống bọng để tưới – tiêu chủ động.
+ Trồng cây chắn gió: chú ý trồng cây chắn gió vì cây vú sữa dễ bị lật gốc, tét
nhánh vì vậy cần phải trồng cây chắn gió; đặc biệt là những vườn ở ven sông
lớn. Hàng cây chắn gió phải thẳng góc với hướng gió thường thổi tới. Hàng cây
chắn gió còn giúp giữ độ ẩm cho vườn, cây quang hợp tốt (do lượng CO2 ổn định
hơn), tránh được đổ ngã khi có gió lớn, cây thụ phấn và đậu quả cũng tốt hơn.
– Chuẩn bị đất để lên mô trồng: chọn đất mặt ruộng, đất bùn ao, đất vườn cũ, xử
lý khoảng 1 – 1,5 kg vôi/mô, phơi 15 – 30 ngày trước khi trồng.
– Chất mô: theo sơ đồ đã thiết kế, đường kính mô từ 0,8 – 1m, cao 0,4 – 0,7m.
– Trộn phân hữu cơ đã hoai mục với Trichoderma để tăng vi sinh vật đối kháng
trong đất khống chế nấm bệnh. Có thể dùng chế phẩm EM để thúc đẩy phân mau hoai
và cung cấp thêm vi sinh vật hữu ích cho cây trồng.
– Bón phân lót: mỗi mô bón 10–15kg phân hữu cơ hoai (đã ủ ở phần trên), 0,3kg
super lân, 0,1kg DAP .
1.3 Cách trồng
a. Mật độ (khoảng cách)
Tùy theo chiều rộng mặt liếp mà bố trí số hàng cây. Với liếp rộng 7 – 8m thì bố
trí trồng một hàng cây ở giữa liếp, khoảng cách 8m/cây, mật độ 12 – 13 cây
/1000m2. Với liếp rộng 9 – 10m, trồng hai hàng theo kiểu nanh sấu. Có thể trồng
xen rau màu hoặc cây ăn trái ngắn ngày trong 1 – 3 năm đầu để tăng thu nhập.
b. Cách đặt cây: Khoét lỗ trên mô vừa với bầu cây con (khoảng 20 – 25 cm), cắt
bớt gốc cành ghép (treo bầu), xé bỏ bao nilon (đựng bầu đất), đặt cây con vào
hố, dùng dao cạo nhẹ lớp vỏ nơi tiếp xúc giữa cành ghép và gốc ghép lấp đất đến
nơi vừa cạo vỏ giúp hình thành 1 lớp rễ mới sau khoảng vài tháng trồng; ém đất
chặt, dùng 3 cây cọc để cố định cây con, chú ý che nắng cho cây.
1.4 Chăm sóc
– Dùng rơm tủ gốc để giữ ẩm và hạn chế cỏ dại.
– Làm cỏ để tránh sự cạnh tranh dinh dưỡng, nên cắt bớt cỏ trong vườn, hạn chế
dùng thuốc diệt cỏ trong vườn cây ăn trái.
– Tưới nước: cần cung cấp nước đầy đủ cho cây vú sữa, mỗi tuần tưới 3 – 5 lần,
mỗi lần tưới 20 – 30 lít nước/cây nhất là vào mùa nắng để giảm tỷ lệ cây chết
và giúp cây phát triển nhanh đặc biệt trong 3 năm đầu. Nên giữ mực nước trong
mương cách mặt liếp ít nhất 40 cm.
– Bón phân:
+ Sau khi trồng đến một năm: sử dụng 70–80ml Greenfield 555 tưới gốc + 20g Urê,
hoà phân vào nước để tưới, mỗi tháng nên bón phân 1 lần.
+ Cây 1 – 3 năm tuổi: bón 1–2 kg hỗn hợp gồm Urê, Greenfield 555, NPK 16–16–8
(hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:3:1; chia làm 4 lần bón trong năm, lượng phân
bón tăng dần theo độ lớn của cây (năm đầu dùng 1kg phân, sau đó tăng dần).
– Tỉa cành tạo tán: trong các năm đầu nên tỉa cành để cây vú sữa có cành phân
bố theo 4 hướng, tạo cho cây có tán tròn đều. Chú ý tỉa bỏ cành vượt, cành trong
tán cây, cành bị sâu bệnh.
2 Giai đoạn từ 3 năm tuổi trở
lên
2.1 Tủ gốc giữ ẩm
Rễ vú sữa thường ăn nông, nhiệt độ của đất cao vào mùa nắng sẽ ảnh hưởng đến bộ
rễ, do đó cần phải tủ gốc giữ ẩm bằng rơm rạ, cỏ khô để giữ ẩm cho đất. Nên tủ
cách gốc để tránh sâu bệnh tấn công.
2.2 Làm cỏ và trồng xen
Nên làm cỏ thường xuyên trong các năm đầu để hạn chế sự cạnh tranh dinh dưỡng
và loại bỏ nơi trú ẩn của sâu bệnh. Đến năm thứ tư trở đi tán cây rộng dần và
công làm cỏ sẽ giảm. Để giảm bớt công làm cỏ và tưới nước, trong các năm đầu
nên dùng rơm rạ phủ gốc và trồng xen một số cây ngắn ngày khác để tăng nguồn
thu nhập.
2.3 Bồi bùn
Hàng năm cần bồi bùn vào mô trồng, nên phơi khô bùn sau khi vét mương rồi sau
đó bồi vào mô. Công tác bồi bùn cần tiến hành thường xuyên hàng năm, ngay cả
khi cây đã lớn và sau khi định hình mương liếp hoàn chỉnh. Việc vét mương bồi
liếp vừa có tác dụng cải tạo hệ thống mương tưới tiêu, nâng cao dần mặt liếp,
vừa có tác dụng cung cấp một phần dinh dưỡng cho cây vú sữa.
2.4 Tưới tiêu
Để cây vú sữa phát triển nhanh hơn, cần phải tưới nước đầy đủ nhất là trong
những năm đầu. Nếu vườn cây vú sữa chưa có hệ thống đê bao ngăn lũ thì phải bố
trí hệ thống thoát nước tốt vì cây vú sữa không chịu được ngập úng.
Giai đoạn cây ra hoa và mang trái tưới nước thường xuyên 2–3 ngày/ lần giúp cây
ra hoa, đậu trái tốt hơn.
2.5 Tỉa cành, tạo tán
Hàng năm, sau khi thu hoạch, phải vệ sinh vườn bằng cách tỉa bỏ những cành mọc
đứng trong tán, cành gãy, cành sâu bệnh, cành khô, già cổi, cành phụ ốm yếu mọc
liên tiếp trên cùng một cành chính, cành mọc gần mặt đất; tỉa thấp lại cành
chính khống chế chiều cao của cây không quá 4–4,5m để tiện chăm sóc, thu hoạch
sau này.
Đối với cây quá già cổi: cây cho lá nhỏ, trái nhỏ, chậm ra nhánh mới; để trẻ
hóa vườn cây vú sữa này cần cưa bỏ từ 30–60% số cành để cây phát triển cành
mới, số cành mới phát triển sẽ cho trái lớn hơn, tốt hơn vào các vụ sau. Sau
mỗi vụ thu hoạch nên cưa bỏ 1–2 cành vươn cao, ít lá và có biểu hiện sinh
trưởng, năng suất kém nhất trên tán cây. Cưa ngắn các cành này còn 30–50 cm
tính từ gốc cành. Vết cưa nghiêng 45 độ để tránh đọng nước. Sơn phủ bề mặt vết
cưa bằng dung dịch sun-phát đồng. Khoảng 15 – 20 ngày sau dưới mỗi vết cưa sẽ
phát triển 5 – 15 chồi mới, nên tỉa bớt số chồi mới chỉ giữ lại 2 – 3 chồi khỏe
và ở vị trí đều quanh cành. Khi chồi mới phát triển đến chiều dài 50 – 60cm thì
tiến hành loại bỏ đỉnh sinh trưởng để kích thích chồi phân cành.
* Lưu ý quan sát và phòng trừ sâu hại cho cành mới, cành này có khả
năng cho trái sau 12 – 18 tháng.
2.6 Bón phân:
Từ năm thứ tư sau khi trồng, cây vú sữa bắt đầu cho trái; vì vậy lượng phân bón
cho cây cũng tăng dần lên để đảm bảo đủ dinh dưỡng cho cây. Bón 2 – 3 kg hỗn
hợp gồm Urê, DAP, NPK 16 – 16 – 8 (hoặc 20 – 20 – 15), với tỉ lệ 1:1; chia làm
4 lần bón trong năm bón vào lúc cây ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu
hoạch 1 – 2 tháng. Lượng phân bón trên áp dụng cho cây 4 – 5 năm tuổi. Cây vú
sữa từ năm thứ 5 sau khi trồng, bước sang giai đoạn cho trái ổn định, và cũng
là bắt đầu giai đoạn kinh doanh. Nên bón 4 lần phân vào các giai đoạn: sau khi
thu hoạch làm gốc để cây chuẩn bị ra hoa, đậu trái, nuôi trái và trước thu
hoạch 1 – 2 tháng. Liều lượng phân bón thay đổi, tăng dần theo tuổi cây từ 6
năm đến trên 20 năm (lúc đầu bón số lượng nhỏ, tăng dần theo từng năm). Mức
phân đề nghị cho cây 5 năm tuổi như sau :
– Lần 1: Bón vào giai đoạn xử lý ra hoa sớm với 5–10 kg phân hữu
cơ hoai/cây và 3 – 6 kg gồm NPK (20 – 20 – 15 hoặc 16 – 16 – 8), Urê và phân
lân theo tỉ lệ 1/1/1.
– Lần 2: Bón vào giai đoạn đậu trái lúc trái bằng nút áo với
lượng 2 – 4 kg phân/cây gồm Urê và DAP theo tỉ lệ 2/1.
– Lần 3: Bón vào giai đoạn nuôi trái, lúc trái có đường kính
khoảng 2cm, với 2 – 3 kg phân NPK/cây (dạng phân như nói trên).
– Lần 4: Bón vào giai đoạn trước thu hoạch 1 – 2 tháng với liều
lượng 1 – 2 kg phân NPK/cây.
Các lần bón phân cách nhau từ 2,5 – 3 tháng.
Phương pháp bón: Trước khi bón phân nên tiến hành thu dọn toàn bộ vật liệu tủ
gốc rồi bón lên mặt liếp (mô) hoặc xới rảnh sâu 5-10 cm ở 2/3 đường kính tán
cây, bón phân vào rãnh. Sau khi bón phân nên che phủ gốc bằng các vật liệu hữu
cơ và tưới nước liên tục 5-7 ngày cho phân tan vào đất.
2.7 Phòng trừ sâu bệnh:
Sâu bệnh hại vú sữa thì có nhiều loại, nhưng ở giai đoạn nuôi trái lớn thì nên
chú ý những đối tượng chính dưới đây:
– Sâu đục trái (Alopia sp.) phá hại từ khi trái còn nhỏ cho đến
khi đã già và chín, có thể làm rụng hoặc hư cả trái, giảm phẩm chất trái. Khi
mới thấy một vài trái non bị hại thì phun ngay, phun 2-3 lần cách nhau 7-10
ngày/lần bằng các loại thuốc Tiper 25EC, Tizonon 50EC, SauAba 3.6EC, Newgreen
2.0EC, Vibasu, Sagolex, Oncol, Netoxin, Lorsban…
– Bệnh thối trái do nấm Lasio diplodia Theobromac và
Colletotrichum sp. xâm nhập từ khi trái còn nhỏ gây ra. Vết bệnh lúc đầu chỉ là
một đốm nhỏ màu đen, gặp thời tiết ẩm bệnh phát triển mạnh, lây lan nhanh khắp
trái, làm trái khô đen và rụng, tỷ lệ trái hư khá cao, đôi khi lên tới 20-25%.
Phòng trừ bằng cách vệ sinh vườn cho thoáng, tránh lây lan; nhặt và tiêu hủy
trái rụng vì bệnh. Phun các loại thuốc như: Tipo-M 70BHN, Tinomyl 50WP, Lâmbac
35SD, Tipozeb 80WP, Awin 100SC, Carbenzim 500FL, Thio-M 500SC, Score, Antracol,
Daconil, Nustar hay Benomyl…2-3 lần, cách nhau 10-15 ngày/lần.Trái sau thu
hoạch có thể xử lý bằng nước nóng 520C trong 10 phút cũng ngừa được bệnh thối
trái.
– Cần phải bao trái để phòng trừ sâu bệnh.